Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Luật sư Hà Thị Khuyên
Tạm giam bị can là một biện pháp ngăn chặn đã được luật định, được thực hiện sau khi cơ quan điều tra khởi tố vụ án, khởi tố bị can, được quy định tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015. Theo quy định tố tụng hình sự hiện hành thì những tội danh tương ứng với tội rất ngiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng mới xem xét áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam, còn những tội danh tương ứng với tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn là tạm giam khi có dấu hiệu cho thấy bị can có nơi cư trú không rõ ràng, nếu không tạm bị can sẽ tiếp tục phạm tội, cản trở gây khó khăn cho công tác điều tra, có nguy cơ bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ…
Trường hợp cơ quan điều tra xác định không có căn cứ để thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị can, trong khi tội danh và khung hình phạt mà bị can bị khởi tố chỉ là tội có tính chất ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, có thể xuất phát từ việc cơ quan điều tra cho rằng trong quá trình điều tra bị can không thành khẩn, không nhận tội và có căn cứ xác định biện pháp ngăn chặn là tạm giam tại khoản 2, Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 173 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Cũng theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật tố tụng Hình sự thì đã hết thời gian tạm giam, nên cơ quan điều tra phải căn cứ khoản 2, Điều 173 Bộ luật tố tụng Hình sự để gia hạn tạm giam để tiếp tục điều tra, do có căn cứ xác định vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam, trường hợp này chậm nhất là 10 ngày trước khi hết thời hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam. Việc gia hạn tạm giam được quy định như sau: Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 01 tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 02 tháng; đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá 03 tháng; đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 02 lần, mỗi lần không quá 04 tháng.
Căn cứ điểm b, khoản 2, Điều 173 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 thì “đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam 01 lần không quá 02 tháng” việc gia hạn tạm giam chỉ được thực hiện 01 lần. Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người bị tạm giam phải được trả tự do. Trường hợp xét thấy cần thiết thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Ngoài cơ quan điều tra, thì thẩm quyền gia hạn tạm giam còn được thực hiện bởi Viện kiểm sát, quy định tại khoản 3, Điều 173 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trường hợp vụ án do Cơ quan điều tra cấp tỉnh, Cơ quan điều tra cấp quân khu thụ lý điều tra thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp thời hạn gia hạn tạm giam lần thứ nhất quy định tại điểm a khoản này đã hết mà chưa thể kết thúc việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thể gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.