Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Luật sư Hà Thị Khuyên
Theo thông tin ban đầu, vào khoảng 16h15p ngày 18/1 (tức ngày 27 Tết), chị L.T.H. (SN 1992, trú xã Luận Khê, huyện Thường Xuân) điều khiển xe máy chở theo con trai 8 tuổi và chị gái đi từ thôn Buồng về thôn Kha, xã Luận Khê. Về đến khu vực nghĩa trang thôn Buồng thì bất ngờ bị 2 người đàn ông đi xe máy ngược chiều, ép vào lề đường sau đó tạt axit về phía xe chị H. khiến 3 người đi trên xe bị thương ở vùng mặt, tay. Sau khi nhận được tin báo, Công an huyện Thường Xuân đã huy động lực lượng vào cuộc xác minh. Đến ngày 24/1 (tức ngày mùng 4 Tết Quý Mão), công an xác định được người điều khiển xe máy gây ra vụ tạt axit là Lê Văn C. (Link thông tin https://congly.vn/an-ninh-hinh-su/thue-nguoi-tat-axit-vao-nhan-tinh-voi-gia-30-trieu-dong-501440.html?)
Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên cho biết, hành vi của các đối tượng có tính chất côn đồ, coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe và tính mạng của người khác. Bởi vậy, việc cơ quan điều tra tạm giữ hình sự các đối tượng để phục vụ công tác điều tra là có căn cứ, đúng trình tự thủ tục.
Trong vụ án này, thương tích của nạn nhân đã rõ tuy nhiên để có căn cứ, áp dụng một chế tài tương xứng với tính chất và mức độ, hậu quả của hành vi mà các đối tượng gây ra cho nạn nhân, thì cơ quan điều tra sẽ tiến hành giám định tỷ lệ thương tích, khám nghiệm hiện trường, thu thập lời khai của những người liên quan, xác định chất lỏng tạt vào người nạn nhân là loại axit gì, lượng axit mà các đối tượng sử dụng có khối lượng ra sao, vị trí và tư thế tạt… để củng cố hồ sơ và có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các đối tượng.
Hành vi tạt axit tấn công người khác theo quy định pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội và sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, kể cả mới chuẩn bị axit mà chưa tạt vào người nạn nhân thì vẫn có căn cứ xử lý các đối tượng nếu hành vi được xem là chuẩn bị công cụ để phạm tội theo quy định tại khoản 6, Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, thì đã phải chịu hình phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm. Chỉ ra vấn đề này để thấy pháp luật quy định khá rõ về trách nhiệm hình sự đối với hành vi sử dụng axit để tấn công người khác là hành vi sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Đối chiếu với tình huống vụ án này có thể thấy nạn nhân đã có thương tích cụ thể, hành vi tấn công nạn nhân bằng dung dịch axit gây bỏng mặt và tay của các đối tượng là khá nguy hiểm, hành vi của các đối tượng đã cấu thành tội Cố ý gây thương tích quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 với tình tiết dùng axit nguy hiểm để gây thương tích cho nạn nhân, hành vi có tính chất côn đồ, có tổ chức (có sự bàn bạc phân công giữa các đồng phạm). Hình phạt mà các đối tượng có thể đối mặt tùy thuộc tính chất, mức độ và hậu quả hành vi đã gây ra, trong đó đối tượng chủ mưu cầm đầu mua axit và thuê các đối tượng khác tạt axit phải chịu trách nhiệm chính, các đối tượng trực tiếp thực hiện hành vi là đồng phạm với vai trò thực hành tích cực.
Hình phạt đối với tội Cố ý gây thương tích, được quy định cụ thể tại Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015 như sau:
Điều 134. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
1. Người nào cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% hoặc dưới 11% nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người;
b) Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm;
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người khác không có khả năng tự vệ;
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình;
đ) Có tổ chức;
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc;
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do được thuê;
i) Có tính chất côn đồ;
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 06 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:
a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên, nếu không thuộc trường hợp quy định tại điểm b khoản 4 Điều này;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm:
a) Làm chết người;
b) Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên;
d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;
đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
5. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Làm chết 02 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này.
6. Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Về trách nhiệm bồi thường các đối tượng phải thực hiện đối với nạn nhân, đối với hành vi dùng axit để tấn công xâm hại sức khỏe nạn nhân dẫn tới thương tích cụ thể cho nạn nhân, thì các đối tượng này phải bồi thường thiệt hại cho nạn nhân theo quy định tại Điều 590 Bộ luật Dân sự năm 2015, khoản bồi thường gồm: Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại; Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại.
Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại Khoản 1 Điều 590 Bộ luật dân sự 2015 và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.
Liên hệ tư vấn Luật sư: 0936683699 - 0983951338