Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Cùng với lĩnh vực “lập pháp” và “hành pháp”; lĩnh vực “tư pháp” luôn được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm, điều này được thể hiện qua hàng loạt chủ trương, định hướng chỉ đạo của Đảng nhằm xây dựng một nền tư pháp dân chủ, tiến bộ. Gắn với mỗi thời kỳ lịch sử, Đảng Cộng sản Việt Nam đều để lại những dấu ấn sâu sắc đối với hoạt động tư pháp; luôn kịp thời đề ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn đối với công tác tư pháp nước nhà. Bài viết tập trung phân tích, luận giải về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống Viện kiểm sát và Tòa án. Từ đó đưa ra những đánh giá, tổng kết về việc thực hiện vai trò của Đảng trong lĩnh vực tư pháp từ lịch sử lập hiến cho đến nay.
1. Cơ sở và nền tảng lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động tư pháp
Quyền tư pháp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm thẩm quyền xét xử và các thẩm quyền liên quan đến xét xử như điều tra, truy tố, thi hành án, Ngoài ra, còn có thể kể đến các hoạt động bổ trợ tư pháp như: luật sư, công chứng, giám định...; trong đó, xét xử là hoạt động trung tâm. Quyền tư pháp còn được các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý định nghĩa, đó là: “quyền xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh tế, lao động, hành chính…”. Quyền tư pháp đó được thực hiện bởi các cơ quan tư pháp, bao gồm: các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân, các tổ chức luật sư, các cơ quan giám định, cơ quan công chứng; trong đó, quan trọng nhất là Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân. Bởi vậy, trong 5 bản Hiến pháp (1946, 1959, 1980, 1992, 2013) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đều dành ra các phần quy định cụ thể cho nhánh quyền lực thứ ba (tư pháp) tập trung trình bày quyền hạn, trách nhiệm của Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân. Hai cơ quan này có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, của các công dân; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
Trong việc thực hiện các nhiệm vụ tư pháp, Toà án nhân dân là cơ quan xét xử. Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật và thực hành quyền công tố. Toà án là nơi biểu hiện tập trung của quyền tư pháp; nơi mà kết quả của hoạt động điều tra, công tố, bào chữa, giám định tư pháp được kiểm tra, xem xét, đánh giá một cách công khai thông qua thủ tục tố tụng để đưa ra những phán xét cuối cùng mang tính quyền lực Nhà nước; nơi thể hiện chất lượng hoạt động và uy tín của các cơ quan tư pháp trong tổ chức bộ máy Nhà nước, phản ánh một cách đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất nền công lý của chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực tư pháp tuân theo nguyên tắc bảo đảm các cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ quyền lợi chính đáng và hợp pháp của mọi pháp nhân - dù đó là cơ quan, đoàn thể, tập thể hay cá nhân công dân; bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất. Nhờ vậy, mọi quan điểm, chủ trương, tư tưởng chỉ đạo cơ bản của Đảng sau khi được thể chế hoá sẽ được thực thi một cách nghiêm minh, có hiệu quả. Khi đó, vai trò lãnh đạo của Đảng được củng cố, tăng cường và phát huy trên phạm vi toàn thể xã hội. Khi đánh giá tính đúng - sai, thước đo hiệu quả vai trò lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực tư pháp, phải lấy đó làm chuẩn mực. Do có tính độc lập tương đối về chức năng, nhiệm vụ giữa Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân, trong điểm này, ở những chỗ cần thiết, tạm thời tách ra để trình bày phương thức lãnh đạo của Đảng đối với từng loại cơ quan tương ứng.
2. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan Viện kiểm sát nhân dân
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Viện kiểm sát nhân dân được bắt đầu bằng việc lãnh đạo về tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân và xác định chức năng, nhiệm vụ của cơ quan này. Lịch sử xây dựng và phát triển của cơ quan công tố (nay là Viện kiểm sát nhân dân) gắn liền với quá trình cải cách tư pháp ở nước ta và chịu sự chi phối một cách trực tiếp của quá trình cải cách đó. Từ năm 1946 đến năm 1950, hệ thống cơ quan công tố được tổ chức nằm trong cơ cấu của Toà án, do Bộ Tư pháp quản lý. Tuy nhiên, Bộ trưởng Bộ Tư pháp không có quyền trực tiếp làm nhiệm vụ công tố. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của Toà án, Đảng ta đã chỉ đạo xây dựng hệ thống Toà án các cấp. Năm 1950, cùng với việc thành lập hệ thống Toà án nhân dân các cấp, tổ chức và hoạt động của cơ quan công tố đã có những thay đổi đáng kể.
Về mặt tổ chức, Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp điều khiển Công tố viên trong địa hạt của mình. Uỷ ban này có thể ra mệnh lệnh cho ngành công tố. Đại diện ngành công tố phải tuân theo mệnh lệnh của Uỷ ban. Về mặt thẩm quyền, Công tố viên không chỉ có quyền kháng cáo về mặt hình mà có quyền kháng cáo cả về việc hộ (dân sự). Đây là sự mở rộng rất đáng kể thẩm quyền của cơ quan công tố, thể hiện sự thay đổi căn bản quan niệm truyền thống cho rằng những việc hộ (các vụ việc về dân sự) chỉ là công việc mang tính tư nhân, xã hội không can thiệp đến.
Trên cơ sở Nghị quyết ngày 29/4/1958 của Quốc hội khoá I (kỳ họp thứ 8), Viện công tố với tư cách là một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập được thành lập từ Trung ương đến địa phương, tách khỏi Bộ Tư pháp. Xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc chuyển giai đoạn cách mạng ở nước ta, giai đoạn vừa tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, vừa tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Đảng đã chỉ đạo thành lập Viện kiểm sát nhân dân trên cơ sở Hiến pháp năm 1959 và xây dựng Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1960. Trong đó quy định Viện kiểm sát nhân dân có chức năng kiểm sát việc tuân thủ pháp luật và được tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, các viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, hoặc các đơn vị hành chính tương đương đều lập ra Uỷ ban kiểm sát, nhưng chỉ là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng.
Sau khi thống nhất đất nước (1975), trên cơ sở đường lối và nhiệm vụ cách mạng được đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (năm 1976), Nhà nước ta đã ban hành Hiến pháp năm 1980. Ở đó không chỉ tiếp tục quy định chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật, mà còn nhấn mạnh hoạt động thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân, nhấn mạnh trách nhiệm của Viện kiểm sát trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm, kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc điều tra, xét xử. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1980, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981 được ban hành, tiếp tục khẳng định Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền công tố.
Trên tinh thần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính, ngày 4/12/1991, Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã ra kết luận về việc sửa đổi Hiến pháp năm 1980, cải cách một bước bộ máy Nhà nước và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng, Hội nghị đã khẳng định chức năng của Viện kiểm sát nhân dân. Như vậy, theo quan điểm của Đảng, việc sửa đổi Hiến pháp năm 1980 không làm thay đổi vị trí, chức năng của các cơ quan Nhà nước, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân.
Ngày 7/10/1992, Quốc hội đã thông qua Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, thể chế hoá quan điểm của Đảng về cải cách các cơ quan tư pháp, cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp năm 1992 về Viện kiểm sát nhân dân. Từ góc độ nguyên tắc tổ chức và hoạt động, so với Hiến pháp năm 1980, các quy định về Viện kiểm sát nhân dân trong Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, thì có 2 điểm mới cơ bản:
Một là, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất vấn của đại biểu Hội đồng nhân dân (Điều 140). Điều đó có nghĩa là, Hội đồng nhân dân có quyền giám sát hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân (Điều 7, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992).
Hai là, Viện kiểm sát không còn là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng, mà có quyền thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng (Điều 138). Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu không còn được toàn quyền tự quyết định mọi vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân ở cấp tương ứng.
Tại Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đặt ra yêu cầu cấp thiết phải xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước vững mạnh, trong sạch, có hiệu lực và hiệu quả; bài trừ quan liêu, tham nhũng, giữ vững và phát huy bản chất cách mạng của một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Liên quan tới Viện kiểm sát, Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: “Viện kiểm sát nhân dân làm tốt hơn nữa công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Nghiên cứu sắp xếp tổ chức hợp lý, tập trung làm tốt chức năng công tố...”.
Ngày 18/6/1997, Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã ra Nghị quyết về “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”, khẳng định cần tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết nêu trên của Đảng. Tuy nhiên, để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao đối với việc xây dựng Nhà nước trong thời kỳ mới, Nghị quyết của Hội nghị đã nhấn mạnh một số chủ trương, nhiệm vụ trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước. Chẳng hạn, về vấn đề cải cách tư pháp, Nghị quyết nêu rõ: “Hoạt động tư pháp phải nhằm đấu tranh nghiêm trị các tội chống Tổ quốc, chống chế độ, tội tham nhũng và các tội hình sự khác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Khắc phục những biểu hiện hữu khuynh trong đấu tranh chống tội phạm, đồng thời chống tình trạng bắt và giam giữ oan sai, xét xử không công minh, vi phạm quyền dân chủ của công dân. Các cơ quan tư pháp phải là mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện công lý, tính dân chủ, công khai trong hoạt động”.
Đối với Viện kiểm sát Nghị quyết nhấn mạnh việc “nâng cao chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát theo chức năng quy định trong Hiến pháp, tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp”. Nghị quyết cũng nêu rõ phải “xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức và có năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể”. Đẩy mạnh việc xây dựng quy hoạch và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Thực hiện việc luân chuyển cán bộ.
Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (8/1999) đã ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị”. Đối với các cơ quan tư pháp, Nghị quyết chỉ rõ cần phải “sắp xếp hợp lý tổ chức của hai ngành kiểm sát và toà án; sắp xếp các cơ quan điều tra, kiện toàn cơ quan thi hành án; tổ chức nghiên cứu, xây dựng đề án cụ thể về tổ chức, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan kiểm sát, toà án theo các định hướng đã đề ra ở Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần này”.
Quán triệt các nghị quyết của Đảng và Quốc hội, nhất là Chỉ thị số 53-CT/TW năm 2000 và Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng ngày 02 tháng 01 năm 2002 “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” đã đề ra chủ trương “Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác...”. Ngày 15/4/2002 và năm 2003 xây dựng Kế hoạch số 04/KH-LN về tiếp tục rà soát đơn khiếu kiện về tư pháp và phân loại xử lý theo thẩm quyền của các cơ quan tư pháp. Tiếp đó là Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 02 tháng 06 năm 2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã nhấn mạnh vấn đề trọng tâm “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp”. Đặc biệt, Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã chỉ đạo toàn ngành phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật, triển khai thực hiện Luật Tổ chức Viện kiểm sát Nhân dân (2014); Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự (2015); Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự (2015); Luật Hành chính và Luật Tố tụng Hành chính (2015).
Như vậy, các chủ trương, định hướng và nghị quyết của Đảng từng bước làm rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành của Viện kiểm sát nhân dân; giúp không ngừng nâng cao năng lực phẩm chất của đội ngũ cán bộ; tăng cường kỷ luật, kỷ cương công tác, cụ thể hoá nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động kiểm sát, hoạt động công tố.
3. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan Tòa án nhân dân
Lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực xây dựng hệ thống toà án: Ngay sau khi Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh ngày 13/9/1945 thiết lập các Toà án quân sự, đánh dấu sự ra đời Toà án nhân dân. Tính đến thời điểm hiện tại (2017), ngành Toà án nhân dân đã có một hệ thống hoàn chỉnh, bao gồm: Toà án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao, các Toà án nhân dân tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương; các Toà án nhân dân huyện/quận/thị xã/thành phố thuộc tỉnh; Toà án quân sự trung ương; các Toà án quân sự quân khu và tương đương và các Toà án quân sự khu vực.
Vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc xác định nhiệm vụ của Toà án: Khi nói đến Toà án nhân dân là nói đến cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chỉ có Toà án mới nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế và hành chính… “Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, các Toà án quân sự và các Toà án khác do luật định là những cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 127, Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Nghị quyết của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25/12/2001 và Điều 1, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002); “Toà án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật” (Điều 1, Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 2002).
Những quy định trên của pháp luật trong quá trình đổi mới là kết quả thể chế hoá tư tưởng, quan điểm chỉ đạo của Đảng trên vấn đề này trong thời kỳ tương ứng. Chẳng hạn, Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã khẳng định: “khi xét xử, Toà án chỉ tuân theo pháp luật. Chấm dứt tình trạng một số đồng chí trong cấp uỷ can thiệp vào công tác xét xử của Toà án”. Quan điểm chỉ đạo này vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành Toà án nhân dân, vừa bảo đảm nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” - một nguyên tắc quan trọng được ghi nhận tại Điều 130, Hiến pháp năm 1992.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã chỉ rõ: “Về tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân, trên cơ sở kiện toàn tổ chức và cán bộ, nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án nhân dân cấp quận, huyện theo hướng việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Toà án cấp này. Toà án cấp tỉnh chủ yếu xét xử phúc thẩm. Toà án nhân dân tối cao chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các Toà án địa phương thực hiện xét xử thống nhất theo pháp luật. Hạn chế việc xét xử sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Nghiên cứu tiếp tục thành lập các toà chuyên môn. Tổng kết thực tiễn công tác quản lý Toà án địa phương, xác định rõ trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong việc quản lý cá Toà án địa phương về tổ chức và cán bộ...”.
Đại hội VIII của Đảng khẳng định những chủ trương đã được đề cập tại Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VII, cụ thể là: “Phân định lại thẩm quyền xét xử của Toà án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Toà án nhân dân huyện...”.
Để triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã đề ra những chủ trương, nhiệm vụ nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, trong đó có công tác cải cách tư pháp. Hội nghị nêu rõ: Tiếp tục cải cách tư pháp là một yêu cầu cấp bách. Nhân dân đòi hỏi các cơ quan và nhân viên tư pháp phải mẫu mực tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, thể hiện tính dân chủ, công khai, đại diện cho công lý của chế độ, phải thật sự trong sạch, công minh, phải xác định rõ thẩm quyền của mỗi cấp Toà án..., bảo đảm thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử... Kiện toàn các toà chuyên môn cả về thẩm quyền và tổ chức, nhân sự, bảo đảm phục vụ tốt nhu cầu đổi mới tư pháp...
Hội nghị cũng đã đề ra những chủ trương về đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân: (1) Thực hiện nguyên tắc hai cấp xét xử. Bỏ thủ tục xét xử sơ chung thẩm của Toà án nhân dân tối cao và Toà án quân sự Trung ương. Nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng; (2) Toà án nhân dân tối cao tập trung vào công tác tổng kết xét xử, hướng dẫn các Toà án áp dụng pháp luật thống nhất và làm tốt chức năng giám đốc xét xử. Đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để bảo đảm việc xét xử vừa đúng đắn vừa nhanh chóng; (3) Nghiên cứu phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán Toà án cấp tỉnh và Toà án cấp huyện; đồng thời căn cứ vào tình hình đội ngũ cán bộ hiện nay mà điều chỉnh tiêu chuẩn tuyển chọn cho phù hợp để kịp thời bổ sung đủ Thẩm phán cho Toà án cấp huyện và Toà án cấp tỉnh”.
Để nâng cao chất lượng triển khai quan điểm về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Toà án, ngày 8/01/1993, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 29/CT-TW về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật”. Trong Chỉ thị này, Đảng ta đã nhấn mạnh: các cấp uỷ đảng không được buông lỏng sự lãnh đạo đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật, nhưng cũng không được can thiệp vào hoạt động của các cơ quan này; kiên quyết khắc phục tình trạng một số cơ quan bảo vệ pháp luật ỷ lại, thụ động, không dám chịu trách nhiệm về công tác thuộc chức năng, nhiệm vụ của mình. Cơ sở đánh giá hoạt động bảo vệ pháp luật không phải căn cứ vào số vụ bắt giam, giữ, xét xử nhiều mà phải căn cứ vào hiệu quả góp phần bảo vệ quyền dân chủ của công dân, chuyên chính với những kẻ xâm phạm lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc, ngăn ngừa và đẩy lùi tội phạm, tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong nhân dân trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.
Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII của Đảng đã đề ra một số nhiệm vụ quan trọng cho ngành Tư pháp nói chung, Toà án nói riêng: “Đảng đoàn Quốc hội phối hợp với Ban cán sự đảng chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ đạo việc sắp xếp hợp lý tổ chức của hai ngành Kiểm sát và Toà án...; tổ chức nghiên cứu, xây dựng đề án cụ thể về tổ chức, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan Kiểm sát, Toà án theo các định hướng đã đề ra ở Nghị quyết Trung ương tám khoá VII, Nghị quyết Trung ương ba khoá VIII và Nghị quyết Trung ương lần này”.
Để công tác tư pháp có những chuyển biến mạnh mẽ, thực hiện tốt nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02-01-2002, “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. Nghị quyết này là văn kiện thể hiện tương đối toàn diện, có hệ thống quan điểm của Đảng về công tác tư pháp, trong đó có công tác tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân. Các quan điểm chỉ đạo đó vừa kế thừa, vừa phát triển, cụ thể hoá những quan điểm đã được xác định trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng về xây dựng Nhà nước. Nghị quyết đề ra bốn quan điểm chỉ đạo:
Thứ nhất, công tác tư pháp phải thực hiện đúng đường lối, chủ trương của Đảng, bám sát và phục vụ có hiệu quả nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế; giữ vững bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Thứ hai, công tác tư pháp phải ngăn ngừa có hiệu quả và xử lý kịp thời, nghiêm minh các loại tội phạm hình sự, đặc biệt là các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội tham nhũng và các loại tội phạm có tổ chức; bảo vệ trật tự, kỷ cương; bảo đảm và tôn trọng quyền dân chủ, quyền, lợi ích hợp pháp của các tổ chức và công dân.
Thứ ba, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia vào công tác tư pháp. Các cơ quan tư pháp phải dựa vào nhân dân để hoạt động, đồng thời phải là lực lượng nòng cốt, là chỗ dựa vững chắc của nhân dân trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật và giải quyết tranh chấp.
Thứ tư, xây dựng các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh và từng bước hiện đại, góp phần xây dựng, bảo vệ Đảng và Nhà nước.
Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 2/01/2002, “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” trong đó có nhiệm vụ công tác tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân. Các nhiệm vụ này không chỉ tiếp tục khẳng định và làm rõ thêm những chủ trương, giải pháp về cải cách tư pháp đã được ghi nhận trong văn kiện của Đảng trước đây, mà còn đề ra những chủ trương, giải pháp cụ thể hơn, toàn diện hơn. Đó là:
Nâng cao chất lượng hoạt động và trách nhiệm của các cơ quan tư pháp. Trong nhiệm vụ này, Nghị quyết đã nêu nhiều giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng công tác điều tra, công tác kiểm sát, hoạt động xét xử và thi hành án.
Riêng đối với hoạt động xét xử của Toà án Khi xét xử, các Toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn pháp luật quy định; Tạo điều kiện để đội ngũ luật sư tham gia vào quá trình tố tụng; Tăng cường sự phối hợp với các cơ quan tư pháp khác trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ.
Tiếp tục cụ thể hoá và thực hiện những chủ trương về cải cách tổ chức và đổi mới hoạt động các cơ quan tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII, Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII và Nghị quyết Đại hội IX của Đảng. Trong nhiệm vụ này, định hướng đối với ngành Toà án nhân dân được nêu ra trong Nghị quyết là: Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục tố tụng rút gọn đối với những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm trọng; khẩn trương chuẩn bị tốt điều kiện để thực hiện việc tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện; nghiên cứu mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính...; thành lập Tòa án nhân dân cấp cao ở 3 khu vực (Thủ đô Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ chí Minh); đổi mới tổ chức của Toà án nhân dân tối cao để tập trung làm tốt nhiệm vụ giám đốc thẩm, tái thẩm, tổng kết thực tiễn xét xử, hướng dẫn các toà án áp dụng pháp luật thống nhất.
Để đẩy mạnh quá trình đổi mới tổ chức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Toà án nhân dân, Đại hội IX của Đảng tiếp tục đề ra chủ trương cải cách đối với ngành Tòa án nhân dân, khẳng định lại một số nội dung đã được đề cập đến trong các Văn kiện, Nghị quyết của Đảng trước đây. Cụ thể là: “Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong công tác điều tra, bắt, giam, giữ, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những trường hợp oan sai... Sắp xếp lại hệ thống Toà án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của Toà án các cấp. Tăng cường đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân cả về số lượng và chất lượng”.
Lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ của Toà án: Theo quy định của Luật tổ chức Toà án nhân dân được Quốc hội khoá IX, Kỳ họp thứ nhất thông qua ngày 06/10/1992, Thẩm phán Toà án nhân dân, Thẩm phán Toà án quân sự các cấp do Chủ tịch nước bổ nhiệm thay cho chế độ bầu hoặc cử Thẩm phán trước đó. Để lãnh đạo việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp đạt kết quả tốt, Ban Bí thư đã ra Chỉ thị số 341/CT-TW, ngày 18-3-1994: “Về sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân, Thẩm phán Toà án quân sự các cấp”, trong đó yêu cầu các cấp uỷ và tổ chức đảng ở các cấp, các ngành có liên quan cần nắm vững tiêu chuẩn tuyển chọn Thẩm phán và những nội dung được nêu trong Pháp lệnh về Thẩm phán, về Hội thẩm Toà án nhân dân; đồng thời, lưu ý một số vấn đề về việc tuyển chọn Thẩm phán, về Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán cũng như việc chuẩn bị nhân sự để đưa ra Hội đồng tuyển chọn. Trong Chỉ thị đó nhấn mạnh: “Khi xem xét các tiêu chuẩn, cần chú ý trước hết tiêu chuẩn về chính trị và phẩm chất đạo đức...”.
Đại hội VIII đề ra yêu cầu: “Xây dựng đội ngũ Thẩm phán, Thư ký Toà án... có phẩm chất chính trị và đạo đức, chí công vô tư, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, bảo đảm cho bộ máy trong sạch, vững mạnh”.
Ngày 21/3/2000, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 53/CT-TW, yêu cầu các cấp uỷ đảng, Ban cán sự đảng, Đảng uỷ các cơ quan tư pháp cần chủ động xây dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ Toà án trong sạch, vững vàng, có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ tư pháp trong thời kỳ mới, chú trọng trước hết đội ngũ cán bộ ở cấp huyện để chuẩn bị thực hiện chủ trương tăng thẩm quyền xét xử cho cấp huyện; phối hợp nghiên cứu, xây dựng đề án về chế độ bồi dưỡng cho Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, Thư ký phiên toà với mức phụ cấp thoả đáng, phù hợp với chất lượng và khối lượng công việc.
Trong khi coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, Đảng cũng luôn có đòi hỏi ngày càng cao về năng lực chuyên môn để hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ tư pháp; chủ trương phấn đấu tất cả các cán bộ có chức danh tư pháp phải tốt nghiệp đại học luật và qua đào tạo về nghiệp vụ nghề. Yêu cầu cần nghiên cứu việc thi sát hạch trước khi bổ nhiệm và bổ nhiệm có thời hạn cán bộ có chức danh tư pháp; nghiên cứu hoàn thiện cơ chế lựa chọn, bầu cử, bồi dưỡng, quản lý Hội thẩm nhân dân nhằm đề cao trách nhiệm và vai trò của Hội thẩm nhân dân trong xét xử.
Một trong những biện pháp để làm tốt công tác cán bộ tư pháp nói chung là: hằng năm, các cơ quan tư pháp cần nghiêm túc tiến hành nhận xét, đánh giá về trách nhiệm, phẩm chất đạo đức, năng lực, trình độ của cán bộ có chức danh tư pháp để xem xét việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phân công nhiệm vụ hoặc miễn nhiệm, xử lý kịp thời, nghiêm minh những cán bộ yếu kém, vi phạm pháp luật.
Ngoài các văn kiện, nghị quyết nêu trên, Bộ Chính trị, Ban Bí thư còn ban hành một số văn bản khác định hướng cho công tác của các cơ quan tư pháp nói chung và Tòa án nhân dân nói riêng, như: Chỉ thị số 52/CT-TW ngày 16/3/2000 của Bộ Chính trị “Về phạm vi trách nhiệm, quyền hạn giữa các cấp uỷ Đảng với Đảng uỷ Công an, Ban cán sự đảng Viện kiểm sát nhân dân, Ban cán sự đảng Toà án nhân dân trong công tác bảo vệ Đảng và xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên”; Chỉ thị số 09/CT-TW ngày 06/3/2002 của Ban Bí thư “Về một số vấn đề cấp bách cần thực hiện trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hiện nay”. Bộ Chính trị cũng đã cho ý kiến vào Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp (1997) của Tiểu ban xây dựng Đề án cải cách tư pháp và Chương trình trọng tâm công tác tư pháp năm 2002 của Ban chỉ đạo cải cách tư pháp. Những ý kiến chỉ đạo của Bộ Chính trị là những định hướng quan trọng để xây dựng phương án cải cách tư pháp cũng như việc đề ra những nhiệm vụ trọng tâm để các cơ quan tư pháp triển khai thực hiện.
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 2/6/2005 “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” đã nhấn mạnh vấn đề trọng tâm “Nâng cao chất lượng tranh tụng tại tất cả các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Đặc biệt, Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo toàn ngành phối hợp với các cơ quan cấp dưới triển khai thực hiện Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân (2015); Bộ luật Hình sự và Bộ luật Tố tụng hình sự (2015); Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng Dân sự (2015); Luật Hành chính và Luật Tố tụng Hành chính (2015).
Như vậy, từ các chủ trương, định hướng và nghị quyết của Đảng trong từng giai đoạn cụ thể, đã từng bước làm rõ chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu bộ máy, cơ chế vận hành, của hệ thống Tòa án nhân dân; đề cao công tác nâng cao năng lực cán bộ; tăng cường kỷ luật, kỷ cương công vụ, cụ thể hoá nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng nhằm từng bước nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động xét xử của tòa án.
4. Kết luận và những vấn đề đặt ra
4.1. Kết luận
Từ hoạt động thực tiễn trong các hoạt động tư pháp như: hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân và hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, có thể nhận thấy vai trò lãnh đạo xuyên suốt của Đảng trong hệ thống tư pháp. Từ những phân tích, luận giải trong bài viết có thể khái quát và tổng kết vai trò lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực tư pháp, gồm những vai trò sau:
Một là, xây dựng hệ thống các quan điểm, tư tưởng về tội phạm, về hình phạt; về thủ tục tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, hành chính, lao động, hôn nhân, gia đình...
Hai là, xác định các quan điểm về tổ chức bộ máy, nguyên tắc hoạt động của các cơ quan và tiêu chuẩn bổ nhiệm các chức danh tư pháp.
Ba là, giới thiệu cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất để bầu hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ và các chức danh của các cơ quan tư pháp và các chức danh tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Bốn là, cho ý kiến về việc xử lý các vụ án quan trọng, phức tạp về an ninh chính trị, kinh tế - xã hội, trật tự trị an gây hậu quả nghiêm trọng, được dư luận xã hội quan tâm, hoặc các vụ án có ảnh hưởng chính trị rộng ở trong nước và ngoài nước.
Năm là, chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan, các chức danh tư pháp và nhân viên hoạt động trong các cơ quan tư pháp, bảo đảm cho các cơ quan tư pháp làm tốt chức năng, nhiệm vụ được giao theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng; bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm minh và thống nhất; góp phần bảo vệ chế độ xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của mọi công dân. Chống bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội...
Đối với Ban Chấp hành Trung ương: Quyết định những chủ trương lớn về việc xây dựng các cơ quan tư pháp; xác định nội dung cơ bản của các điều khoản trong Hiến pháp về vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ, các nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân.
Đối với Bộ Chính trị: Định hướng về quan điểm và nội dung cơ bản của các dự án luật, pháp lệnh về tổ chức, hoạt động của các cơ quan tư pháp về tố tụng hình sự, dân sự hành chính, lao động,...; quyết định chiến lược xây dựng các cơ quan tư pháp, các chủ trương lớn về định hướng hoạt động của các cơ quan tư pháp và cải cách tư pháp trong từng thời kỳ.
Đối với Ban Bí thư: Chỉ đạo và kiểm tra công tác xây dựng Đảng và kiểm tra việc thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị của Đảng trong các cơ quan tư pháp; chỉ đạo làm thí điểm xây dựng thực hiện một số chủ trương, chính sách mới trong lĩnh vực tư pháp.
Đối với Ban cán sự đảng, Đảng uỷ, Đảng đoàn các cơ quan tư pháp: Chịu trách nhiệm trước Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo việc chuẩn bị các báo cáo, đề án thuộc lĩnh vực công tác của mình trình các cơ quan lãnh đạo của Đảng xem xét quyết định theo thẩm quyền; chỉ đạo việc triển khai thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng đến các đảng viên trong cơ quan, đơn vị mình; chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của ngành; bảo đảm việc chấp hành đầy đủ, đúng đắn chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân.
4.2. Những vấn đề đặt ra
Thứ nhất, từ các chủ trương, định hướng và các Nghị quyết của Đảng trong lĩnh vực tư pháp cho thấy: Quan điểm, đường lối, mục tiêu xuyên suốt trong Chiến lược cải cách tư pháp của Đảng là công cuộc cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bảo đảm ổn định chính trị và bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Thứ hai, quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Thứ ba, cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, bảo vệ vững chắc chế độ gắn với cải cách hành chính và đổi mới công tác lập pháp. Cải cách tư pháp phải được tiến hành có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc, đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người.
Thứ tư, các cơ quan tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của các cơ quan dân cử và nhân dân. Đồng thời cải cách tư pháp phải hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự, dân sự, kế thừa những thành tựu đạt được của nền tư pháp xã hội chủ nghĩa, tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của quốc tế, phù hợp với điều kiện bối cảnh trong nước, chủ động hội nhập quốc tế.
Thứ năm, nhiệm vụ cải cách tư pháp trong thời gian qua dưới sự lãnh đạo của Đảng đã gặt hái được nhiều kết quả quan trọng như: Đã làm thay đổi nhận thức trong cán bộ, đảng viên, các cấp ủy, tổ chức đảng về yêu cầu xây dựng một nền tư pháp của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa: trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.
Thứ sáu, hệ thống chính sách pháp luật về hình sự, dân sự, tố tụng tư pháp, thi hành án, bổ trợ tư pháp, tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bổ trợ tư pháp từng bước được xây dựng, hoàn thiện theo những chủ trương và định hướng của Chiến lược cải cách tư pháp. Việc hoàn thiện tổ chức bộ máy và xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tư pháp có nhiều đổi mới theo hướng hiện đại. Công tác xây dựng và đào tạo đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp được đặc biệt quan tâm, có nhiều đổi mới cả về nội dung và phương pháp đào tạo. Phương thức lãnh đạo của Đảng và công tác giám sát của các cơ quan dân cử đối với các cơ quan tư pháp tiếp tục được đổi mới. Hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp được mở rộng phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ chính trị, Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết 08/NQ-TW ngày 2/1/2002, Hà Nội, 2002.
2. Bộ chính trị (2005), Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị quyết 49/NQ-TW ngày 2/6/2005, Hà Nội, 2005.
3. Bộ Khoa học và Công nghệ, Phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, Chương trình KHXH cấp Nhà nước KX-03-08, Hà Nội, 2005, tr. 82-83.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, tr. 35.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
6. Đặng Đình, Thể chế Đảng cầm quyền - một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.29.
7. Trần Đình Hoan, “Xây dựng chỉnh đốn Đảng và đẩy mạnh cải cách tổ chức hoạt động của Nhà nước”, Tạp chí Cộng sản, số 13, 2001, tr. 12.
8. Nguyễn Phú Trọng, “Xây dựng Đảng cầm quyền: Một số kinh nghiệm từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số 5, 2004, tr. 9.
9. Viện Khoa học Pháp lý, Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2006, tr. 657.