Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường
Luật sư Hà Thị Khuyên
Thông tin từ Ban Chỉ đạo Kế hoạch số 506 của Bộ Công an về phòng, chống tội phạm xâm hại trẻ em, phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật liên quan đến người dưới 18 tuổi cho thấy, 2 năm qua (năm 2021, 2022), lực lượng chức năng đã phát hiện 3.748 vụ, với gần 4.000 trẻ em bị xâm hại, đồng thời xử lý 4.354 trường hợp liên quan. Cũng trong thời gian này, các cơ quan chức năng phát hiện 8.227 vụ, với 16.649 trường hợp là người chưa thành niên vi phạm pháp luật.
Dưới góc độ pháp lý, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường và Luật sư Hà Thị Khuyên cho biết, những con số thống kê về các vụ việc bạo hành trẻ em mà Bộ Công an đưa ra là những con số rất đáng báo động, làm xã hội hết sức bang hoàng. Điều này cho thấy, nguy cơ mất an toàn có thể xảy ra với bất kỳ trẻ em nào, bất kỳ hoàn cảnh nào và bất kỳ ai cũng có thể trở thành đối tượng xâm hại trẻ em.
Tuy nhiên, những con số này được thống kê trên cơ sở các vụ việc có tin báo hoặc đã được giải quyết bằng bản án có hiệu lực của pháp luật. Còn những vụ việc chưa được phát hiện, chưa có kết luận hoặc chưa được giải quyết thì nhiều hơn con số thực tế nhiều lần. Điều này cho thấy, công tác bảo vệ trẻ em cũng như nguy cơ mất an toàn của trẻ em ở Việt Nam vẫn là vấn đề rất đáng lo ngại, cần có sự vào cuộc quyết liệt của nhiều cấp, nhiều ngành cũng như phải có sự chung tay của toàn xã hội thì mới đảm bảo trẻ em có môi trường an toàn và được bảo vệ một cách tốt nhất bởi pháp luật.
Hiện nay, những chế tài xử lý về mặt hành chính, hình sự đã được pháp luật quy định, trong đó những đối tượng thực hiện hành vi xâm hại trẻ em còn bị tăng nặng trách nhiệm hình sự… Pháp luật về chăm sóc và bảo vệ trẻ em ngày càng được hoàn thiện. Tuy vậy, tại sao trẻ em vẫn bị bạo hành, vẫn bị xâm hại, vẫn bị vi phạm quyền nhiều như vậy? Xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó nguyên nhân đầu tiên là những văn bản quy phạm pháp luật, những chính sách chưa sâu vào thực tiễn đời sống xã hội, nhiều người dân còn chưa biết đến và chưa tiếp cận được với các chính sách pháp luật về trẻ em, mặc dù công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật được đẩy mạnh, đề cao, được đổi mới phương thức nhưng hiệu quả cũng ở mức độ nhất định.
Thực tế đã xảy ra nhiều vụ việc đau lòng như bố xâm hại con gái, chú, bác xâm hại cháu, hàng xóm xâm hại trẻ em, thầy giáo xâm hại học sinh… Với những trường hợp này thì vấn đề nhận thức về quyền trẻ em, ý thức chấp hành pháp luật chưa tốt. Chính vì nhận thức hạn chế, đạo đức thấp kém, ý thức coi thường pháp luật, coi thường trẻ em cho nên tình trạng xâm hạ trẻ em vẫn luôn diễn ra hàng ngày ở khắp các địa phương trên cả nước.
Đặc biệt, nguyên nhân dẫn đến các vụ việc xâm hại trẻ em vẫn gia tăng là do việc phát hiện và xử lý còn rất nhiều tồn tại. Những hành vi này thường diễn ra ở nơi vắng vẻ kín đáo, đối tượng là những người không có quan hệ gần gũi hoặc là ruột thịt với trẻ em, vì vậy trong nhiều trường hợp trẻ em cảm thấy xấu hổ, sợ hãi, không dám kể với ai. Nắm bắt được điểm yếu này, những đối tượng thực hiện hành vi đồi bại thường bất chấp pháp luật và tìm cách che giấu hành vi của mình. Những hành vi đó không chỉ vi phạm pháp luật mà còn vi phạm nghiêm trọng đạo đức xã hội, rất ít đối tượng ăn năn với hành vi của mình mà thường chối tội, trốn tránh vì xấu hổ và sợ vi phạm pháp luật, do đó việc phát hiện sẽ gặp rất nhiều khó khăn.
Để phát hiện kịp thời và xử lý hành vi xâm hại trẻ em, đặc biệt là xâm hại tình dục rất khó trừ trường hợp là hiếp dâm hoặc giao cấu có thể để lại dấu vết. Xâm hại ở mức độ dâm ô, sờ mó, đụng chạm, những hành vi này rất ít để lại dấu vết và rất khó để phát hiện. Về câu chuyện trách nhiệm của cộng đồng, nhiều người vẫn có quan điểm “đèn nhà ai nhà nấy rạng”. Trẻ em bị bạo hành, xâm hại, hàng xóm biết, đồn thổi nhưng họ vẫn thờ ơ, ngại mâu thuẫn, sợ khi nói ra bị vạ lây, liên lụy nên nhiều trường hợp đã biết, nghi ngờ nhưng lờ đi, không có trách nhiệm với công tác bảo vệ trẻ em, không trình báo.
Ở các quốc gia phát triển, quyền trẻ em được phổ biến rất rộng rãi cũng như nhận thức về quyền trẻ em trong xã hội rất đầy đủ và ý thức rất cao. Khi phát hiện có hành vi xâm hại, bạo hành trẻ em và bất kỳ ai, những người xung quanh đều có thể nhấc điện thoại gọi ngay cảnh sát, chỉ một thời gian rất ngắn cảnh sát đã có mặt ngay và đưa đối tượng xâm hại trẻ em đó đến đồn công an.
Ở Việt Nam, việc trình báo tố giác, phát hiện, báo cơ quan chức năng còn khó khăn, chậm trễ, nhưng việc cơ quan chức năng có mặt kịp thời để ngăn cản, xử lý cũng bị chậm bởi nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố về nhân lực, nhận thức.
Trường hợp có bạo hành, có xâm hại xảy ra nhưng tâm lý chung của người Việt Nam là trọng tình và dùng tình cảm để giải quyết vấn đề, vậy nên hai bên cứ lời qua tiếng lại, thậm chí vài tháng trôi qua không giải quyết được mới đưa ra pháp luật. Khi đó việc thu thập các chứng cứ, dấu vết để lại trên cơ thể nạn nhân để xác định có hành vi xâm hại hay không, ai bị xâm hại thì rất khó khăn, vì vậy nhiều vụ việc đi vào ngõ cụt, không có đủ căn cứ để kết tội.
Để công tác bảo vệ trẻ em đạt hiệu quả, trẻ em được bảo vệ tốt nhất thì cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, giải pháp đầu tiên là về chính sách pháp luật. Mặc dù chính sách pháp luật, chính sách về bảo vệ pháp luật trẻ em của Việt Nam hiện nay tương đối tốt, tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội thì sẽ phát sinh những tình huống mới, vấn đề mới. Trẻ em bị xâm hại trên môi trường mạng, những nguy cơ phát sinh mới luôn đe dọa trẻ em... Vì vậy, chính sách pháp luật về bảo vệ quyền trẻ em cũng phải được hoàn thiện, đổi mới, phải được bổ sung để cho phù hợp với sự phát triển của xã hội hiện nay.
Câu chuyện về công tác giáo dục pháp luật, giáo dục về quyền trẻ em với độ tuổi học sinh cần phải nâng cao, để làm sao trẻ em biết được quyền của mình cũng như cách thoát hiểm khi bản thân rơi có thể rơi vào tình huống nguy hiểm. Cùng với đó, phải kiện toàn các cơ quan tổ chức có chức năng bảo vệ trẻ em, cần có cơ chế phối hợp để bảo vệ trẻ em.
Hiện nay đến 17 cơ quan tổ chức có chức năng nhiệm vụ bảo vệ trẻ em, nhưng để có một cơ chế phối hợp, cơ quan tổ chức nào thực hiện trong phạm vi nào, phân loại trẻ em, hỗ trợ như thế nào đối với từng đối tượng thì thực sự là vẫn là khoảng trống. Bất kỳ hành vi nào xâm hại đến quyền trẻ em thì đều được xác định là vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức xã hội và những hành vi ấy phải được xã hội cười chê lên án và phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh.
Cần đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, tuyên truyền pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em nhằm nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về xâm hại tình dục trẻ em và hậu quả của nó. Việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật này phải có kế hoạch, chương trình ngắn hạn, dài hạn cụ thể, trong đó chú trọng đến việc lồng ghép nội dung truyền thông vào trong sinh hoạt của thôn, ấp, tổ dân phố; trong sinh hoạt ngoại khóa của các cấp học và sinh hoạt chuyên đề của các tổ chức, đoàn thể các cấp để từ đó nâng cao ý thức tự bảo vệ của trẻ trước những nguy cơ trẻ bị xâm hại. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh việc thực hiện phong trào xây dựng gia đình văn hóa, nếp sống văn minh trong cộng đồng dân cư.
Bên cạnh đó, cần chú trọng hình thức tư vấn, tham vấn và vận động trực tiếp đối với gia đình và cộng đồng dân cư về kỹ năng bảo vệ trẻ em khỏi bị xâm hại. Tập trung hoạt động truyền thông - giáo dục vào những phường, xã trọng điểm, có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và những nhóm đối tượng còn hạn chế trong thực hiện trách nhiệm của mình đối với trẻ em. Đồng thời nâng cao vai trò, trách nhiệm của cha mẹ và người thân nhằm xây dựng thiết chế gia đình bền vững.
Để tránh những sự việc đau lòng do tội phạm xâm hại tình dục gây nên, cha mẹ cần thường xuyên để mắt, quan tâm, chia sẻ với con em mình để nhận thấy những thay đổi tâm, sinh lý cần thiết. Bên cạnh đó, khả năng nhận thức và tự bảo vệ của trẻ em còn nhiều hạn chế nên các em chính là đối tượng có nguy cơ bị lạm dụng, xâm hại tình dục cao nhất. Vì vậy, cha mẹ cũng cần phải trang bị cho con cái biết cách thức phòng vệ trước những đối tượng có ý định thực hiện hành vi đồi bại. Cố gắng chia sẻ với con về giới tính, tình dục tuổi mới lớn. Vì trẻ em hiện nay dậy thì sớm và yêu sớm. Tránh bạo lực khi con có sai phạm, phải nâng đỡ, tôn trọng ý kiến của con, phải biết kiềm chế khi gặp phản ứng trước những căng thẳng khó kiểm soát của con. Cha mẹ luôn cố lắng nghe con nói, hiểu ngôn ngữ của con theo nhóm tuổi, trẻ em càng nhỏ càng khó giải thích nỗi đau. Không chủ quan giao con còn nhỏ cho người khác.
Đối với các nhà trường cần tổ chức nói chuyện chuyên đề về sức khỏe sinh sản cho học sinh thường xuyên. Thầy cô cần quan tâm những học sinh có biểu hiện bất an, không tập trung, cần lắng nghe và quan tâm đến học sinh yếu kém, ít chơi đùa cùng bạn. Thầy cô cần sẵn sàng nói chuyện, trao đổi riêng về tình bạn, tình yêu với học sinh.