Language:
Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đúng luật
08/11/2022
icon-zalo

Luật sư Nguyễn Văn Đồng

Luật sư Hà Thị Khuyên

 

Quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập thông qua hợp đồng lao động, kể từ thời điểm giao kết hợp đồng lao động phát sinh quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng lao động, trong đó có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động phải theo quy định của pháp luật lao động tránh xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của bên còn lại.

 

 

Cơ sở xác lập quan hệ lao động và chấm dứt quan hệ lao động

 

Theo khoản 1, 2, Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2019 thì, người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao động. Độ tuổi lao động tối thiểu của người lao động là đủ 15 tuổi. Còn người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng người lao động làm việc cho mình theo thỏa thuận; trường hợp người sử dụng lao động là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, tại điểm đ, khoản 1, Điều 5 nêu rõ người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động.

 

Quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động được xác lập qua hợp đồng lao động, Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả công, tiền lương, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động. Còn trường hợp hai bên thỏa thuận bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả công, tiền lương và sự quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động. Trước khi nhận người lao động vào làm việc thì người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động theo quy định tại Điều 13 của Bộ luật Lao động năm 2019.

 

Hiện nay Bộ luật Lao động năm 2019 quy định 13 trường hợp chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại Điều 34 có quy định trường hợp người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 35 và người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo quy định tại Điều 36 của Bộ luật Lao động. Đây là 02 quy định bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp pháp cho cả người lao động và người sử dụng lao động, đáp ứng nguyện vọng riêng của mỗi bên, tuy nhiên việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của cả 02 bên phải tuân thủ quy định, trình tự thủ tục pháp luật, tránh xâm hại tới quyền lợi của bên còn lại.

 

Người lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

 

Không phải ngẫu nhiên mà quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động được quy định trước cả quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động, pháp luật ưu tiên bảo vệ quyền lợi của bên yếu thế. Tại Điều 35, Bộ luật Lao động cho phép người lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động có báo trước và đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước, nhưng phải đúng quy định định.

 

Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nhưng phải báo trước cho người sử dụng lao động như sau: Ít nhất 45 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn; Ít nhất 30 ngày nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng; Ít nhất 03 ngày làm việc nếu làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng; Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

 

Người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần báo trước trong trường hợp sau đây: Không được bố trí theo đúng công việc, địa điểm làm việc hoặc không được bảo đảm điều kiện làm việc theo thỏa thuận, trừ trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật Lao động; Không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 97 của Bộ luật Lao động; Bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động; Bị quấy rối tình dục tại nơi làm việc; Lao động nữ mang thai phải nghỉ việc theo quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Lao động; Đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật Lao động, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; Người sử dụng lao động cung cấp thông tin không trung thực theo quy định tại khoản 1 Điều 16 của Bộ luật Lao động làm ảnh hưởng đến việc thực hiện hợp đồng lao động.

 

Bên cạnh đó, tại Điều 40 của Bộ luật Lao động năm 2019 quy định rõ nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, thì sẽ không được trợ cấp thôi việc; phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước; phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo quy định tại Điều 62 của Bộ luật Lao động.

 

Người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

 

Tại khoản 1, Điều 36 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định, người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp: Người lao động thường xuyên không hoàn thành công việc theo hợp đồng lao động được xác định theo tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành công việc trong quy chế của người sử dụng lao động. Quy chế đánh giá mức độ hoàn thành công việc do người sử dụng lao động ban hành nhưng phải tham khảo ý kiến tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở đối với nơi có tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở; Người lao động bị ốm đau, tai nạn đã điều trị 12 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc đã điều trị 06 tháng liên tục đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng hoặc quá nửa thời hạn hợp đồng lao động đối với người làm việc theo hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng mà khả năng lao động chưa hồi phục. Khi sức khỏe của người lao động bình phục thì người sử dụng lao động xem xét để tiếp tục giao kết hợp đồng lao động với người lao động; Do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh nguy hiểm, địch họa hoặc di dời, thu hẹp sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải giảm chỗ làm việc; Người lao động không có mặt tại nơi làm việc sau thời hạn quy định tại Điều 31 của Bộ luật Lao động; Người lao động đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định tại Điều 169 của Bộ luật Lao động, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; Người lao động tự ý bỏ việc mà không có lý do chính đáng từ 05 ngày làm việc liên tục trở lên; Người lao động cung cấp không trung thực thông tin theo quy định tại khoản 2 Điều 16 của Bộ luật này khi giao kết hợp đồng lao động làm ảnh hưởng đến việc tuyển dụng người lao động.

 

Ngoài ra, tại khoản 2, Điều 36 nêu rõ khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trong trường hợp quy định tại các điểm a, b, c, đ và g khoản 1 Điều này, người sử dụng lao động phải báo trước cho người lao động như sau: Ít nhất 45 ngày đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn; Ít nhất 30 ngày đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn từ 12 tháng đến 36 tháng; Ít nhất 03 ngày làm việc đối với hợp đồng lao động xác định thời hạn có thời hạn dưới 12 tháng và đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 36; Đối với một số ngành, nghề, công việc đặc thù thì thời hạn báo trước được thực hiện theo quy định của Chính phủ. Khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động quy định tại điểm d và điểm e khoản 1 Điều 36 thì người sử dụng lao động không phải báo trước cho người lao động.

 

Bên cạnh đó, Bộ luật Lao động năm 2019 cũng quy định rõ tại Điều 37 về những trường hợp người sử dụng lao động không được thực hiện quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động như: Người lao động ốm đau hoặc bị tai nạn, bệnh nghề nghiệp đang điều trị, điều dưỡng theo chỉ định của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 36 của Bộ luật Lao động. Người lao động đang nghỉ hằng năm, nghỉ việc riêng và trường hợp nghỉ khác được người sử dụng lao động đồng ý. Người lao động nữ mang thai; người lao động đang nghỉ thai sản hoặc nuôi con dưới 12 tháng tuổi.

 

Nếu việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái luật sẽ bị hủy bỏ theo quy định tại Đều 38, còn nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật tại Điều 39 thì sẽ phải chịu những biện pháp quy định tại Điều 40 về nghĩa vụ của người lao động khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật như:  Không được trợ cấp thôi việc, phải bồi thường cho người sử dụng lao động nửa tháng tiền lương theo hợp đồng lao động và một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước, phải hoàn trả cho người sử dụng lao động chi phí đào tạo quy định tại Điều 62 của Bộ luật Lao động.

 

Đối với người sử dụng lao động nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật quy định tại Điều 41 Bộ luật Lao động thì phải chịu những chế tài như: Phải nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng lao động đã giao kết; phải trả tiền lương, đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp trong những ngày người lao động không được làm việc và phải trả thêm cho người lao động một khoản tiền ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động. Sau khi được nhận lại làm việc, người lao động hoàn trả cho người sử dụng lao động các khoản tiền trợ cấp thôi việc, trợ cấp mất việc làm nếu đã nhận của người sử dụng lao động. Trường hợp không còn vị trí, công việc đã giao kết trong hợp đồng lao động mà người lao động vẫn muốn làm việc thì hai bên thỏa thuận để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động. Trường hợp vi phạm quy định về thời hạn báo trước quy định tại khoản 2 Điều 36 của Bộ luật Lao động thì phải trả một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động trong những ngày không báo trước; Trường hợp người lao động không muốn tiếp tục làm việc thì ngoài khoản tiền phải trả quy định tại khoản 1 Điều này người sử dụng lao động phải trả trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật Lao động để chấm dứt hợp đồng lao động; Trường hợp người sử dụng lao động không muốn nhận lại người lao động và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền người sử dụng lao động phải trả theo quy định tại khoản 1 Điều này và trợ cấp thôi việc theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật Lao động, hai bên thỏa thuận khoản tiền bồi thường thêm cho người lao động nhưng ít nhất bằng 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động để chấm dứt hợp đồng lao động.

 

Như vậy, hiện nay hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với người lao động và người sử dụng lao động đã được quy định khá cụ thể và chặt chẽ, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đảm bảo các bên khi tham gia hợp đồng phải tuân thủ thỏa thuận, tuân thủ pháp luật, hành xử đúng luật, nhằm tạo ra môi trường lao động an toàn, văn minh, đảm bảo an sinh xã hội và góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội.