Luật sư Hà Thị Khuyên
Câu hỏi của bạn đọc hỏi luật sư: Vướng lao lý vì đòi nợ trái pháp luật, con nợ (người vay) thành bị hại trong vụ án hình sự, trường hợp này có lấy được tiền cho vay?
Giải đáp của luật sư: Luật sư Hà Thị Khuyên - Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, quan hệ vay tài sản là quan hệ dân sự hợp pháp được pháp luật thừa nhận, được điều chỉnh bởi các quy định về hợp đồng vay tài sản trong Bộ luật Dân sự, việc vay mượn có thể được các bên lập thành văn bản hoặc thông qua lời nói, hành vi cụ thể được quy định Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015 về hình thức hợp đồng.
Trường hợp khi đã giao kết hợp đồng mà một trong các bên vi phạm nghĩa vụ dẫn đến phát sinh tranh chấp, thì nếu giải quyết tranh chấp phát sinh này sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân theo thủ tục tố tụng dân sự, các bên sẽ xuất trình các tài liệu chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình.
Tuy nhiên, có nhiều trường hợp người cho vay tài sản (chủ nợ) vì không hiểu biết pháp luật hoặc có thể do không kiềm chế được cảm xúc, hành vi trong quá trình đi đòi khoản vay (khoản nợ) có thể do người vay khất nợ nhiều lần, thất hứa, khiêu khích người cho vay (chủ nợ) dẫn đến những vụ án hình sự như giết người, cố ý gây thương tích, cướp tài sản, cưỡng đoạt tài sản, xâm phạm chỗ ở bất hợp pháp, cố ý làm hư hỏng tài sản hoặc hủy hoại tài sản, gây rối trật tự công cộng… Không vụ việc, vụ án nào là giống nhau, nhưng kết cục của những hành vi “đòi nợ trái pháp luật” này có thể dẫn tới hậu quả chung là con nợ trở thành bị hại trong vụ án hình sự và người cho vay (chủ nợ) lại dính vào vòng lao lý (trở thành bị can, bị cáo trong các vụ án hình sự).
Hiểu một cách rạch ròi, thì việc vay mượn tài sản là quan hệ dân sự, vì vậy chế tài thu hồi tài sản vay chỉ có thể áp dụng hành động đòi nợ hợp pháp là thương lượng, thỏa thuận hoặc khởi kiện dân sự, không thể lấy hành vi vi phạm pháp luật khác để đáp trả lại việc vi phạm nghĩa vụ dân sự. Vì vậy, người dân cần hết sức tỉnh táo khi đi đòi nợ tránh gặp bất lợi, rủi ro pháp lý.
Trường hợp người vay tài sản vi phạm nghĩa vụ của hợp đồng vay tài sản, nhưng có các dấu hiệu như: Chiếm đoạt (không trả lại) tài sản đã được giao bằng thủ đoạn gian dối; không trả lại tài sản được giao khi đến hạn mặc dù có điều kiện, khả năng trả; đã sử dụng tài sản được giao vào mục đích bất hợp pháp, thì người cho vay tài sản (chủ nợ) hoàn toàn có đủ cơ sở để tố giác hành vi của người vay nợ lên cơ quan công an về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015. Số tiền chiếm đoạt trên 500 triệu đồng hình phạt sẽ là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Số tiền chiếm đoạt tối thiểu để bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh này là 4 triệu đồng, nếu dưới 4 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ thì bị xử lý về tội này.
Trong trường hợp hành vi “đòi nợ trái pháp luật” của chủ nợ dẫn đến bản thân vướng vào lao lý, bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì trong vụ án hình sự này chủ nợ (người cho vay) trở thành người bị buộc tội (bị can, bị cáo), còn người vay nợ lại là nạn nhân của hành vi đòi nợ trái pháp luật. Trong vụ án hình sự này chủ nợ là người thực hiện hành vi đòi nợ trái pháp luật dẫn tới bị truy cứu trách nhiệm hình sự ngoài bị xử lý bởi chế tài hình sự còn phải thực hiện trách nhiệm bồi thường về dân sự do có hành vi xâm phạm sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của nạn nhân (là con nợ). Trường hợp nạn nhân có dấu hiệu thông qua quan hệ vay mượn hợp pháp mà cố ý chiếm đoạt tài sản của người bị buộc tội (là chủ nợ) thì có thể cơ quan tố tụng sẽ xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự người vay tài sản về Tội làm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định pháp luật.
Việc người vay nợ trở thành bị hại của hành vi đòi nợ trái pháp luật không làm chấm dứt nghĩa vụ phải trả nợ. Người vay nợ vẫn phải trả nợ cho chủ nợ kể cả họ vướng lao lý, nếu chậm trả nợ vẫn phải chịu thêm lãi suất đối với khoản nợ đó theo thỏa thuận và theo quy định của Bộ luật Dân sự. Chủ nợ nếu không trực tiếp đòi nợ được thì vẫn có thể ủy quyền cho người khác thực hiện việc đòi nợ này.
Từ những phân tích trên cho thấy, người dân cần hết sức thận trọng trong các giao dịch dân sự hằng ngày, cần đọc kỹ các điều khoản hợp đồng vay mượn, thế chấp tài sản đảm bảo cho hợp đồng vay tài sản được khả thi. Khi có tranh chấp hợp đồng vay tài sản nếu không tự thu hồi được tài sản cần tư vấn luật sư để có các biện pháp thu hồi tài sản một cách hiệu quả, đúng pháp luật. Ngoài ra người vay tài sản cũng cần tôn trọng thỏa thuận trong hợp đồng đã giao kết, các quy định về lãi suất các bên cho vay cũng phải đúng theo quy định pháp luật, giải quyết tranh chấp một cách thấu tình đạt lý, tránh để xảy ra việc đòi nợ trái pháp luật dẫn tới hậu quả đáng tiếc.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338