Language:

Tranh chấp dân sự quốc tế

Áp dụng điều ước quốc tế đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 665)
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, tại Điều 665 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về việc áp dụng điều ước quốc tế đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài. Theo đó, trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì quy định của điều ước quốc tế đó được áp dụng. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định của Phần này và luật khác về pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì quy định của điều ước quốc tế đó được áp dụng.
Áp dụng tập quán quốc tế (Điều 666)
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, tại Điều 666 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định việc áp dụng tập quán quốc tế. Theo đó, các bên được lựa chọn tập quán quốc tế trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 664 của Bộ luật Dân sự. Nếu hậu quả của việc áp dụng tập quán quốc tế đó trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.
Áp dụng pháp luật nước ngoài (Điều 667)
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, tại Điều 667 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định việc áp dụng pháp luật nước ngoài. Theo đó, trường hợp pháp luật nước ngoài được áp dụng nhưng có cách hiểu khác nhau thì việc áp dụng phải theo sự giải thích của cơ quan có thẩm quyền tại nước đó.
Phạm vi pháp luật được dẫn chiếu đến (Điều 668)
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, tại Điều 668 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định phạm vi pháp luật được dẫn chiếu đến. Theo đó, pháp luật được dẫn chiếu đến bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng và quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 668. Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật Việt Nam thì quy định của pháp luật Việt Nam về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng. Trường hợp dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba thì quy định của pháp luật nước thứ ba về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự được áp dụng. Trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 664 Bộ luật Dân sự thì pháp luật mà các bên lựa chọn là quy định về quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự, không bao gồm quy định về xác định pháp luật áp dụng.
Trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài (Điều 670)
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, tại Điều 670 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định trường hợp không áp dụng pháp luật nước ngoài. Theo đó, pháp luật nước ngoài được dẫn chiếu đến không được áp dụng trong trường hợp sau đây: Hậu quả của việc áp dụng pháp luật nước ngoài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam; Nội dung của pháp luật nước ngoài không xác định được mặc dù đã áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng. Trường hợp pháp luật nước ngoài không được áp dụng theo quy định tại khoản 1 Điều này thì pháp luật Việt Nam được áp dụng.
Thời hiệu đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài (Điều 671)
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, tại Điều 671 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về thời hiệu đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài được xác định theo pháp luật áp dụng đối với quan hệ dân sự đó. Để xác định thời hiệu của một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài trước hết, phải xác định được quan hệ đó đang được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật nào, cụ thể tại: khoản 1 Điều 678 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản, theo đó việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu và quyền khác đối với tài sản được xác định theo pháp luật của nước nơi có tài sản. Như vậy tài sản tồn tại tại quốc gia nào, thì việc xác lập, thực hiện, thay đổi quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản được thực hiện theo quy định pháp luật của quốc gia đó; đồng thời thời hiệu đối với việc xác lập, thực hiện, thay đổi quyền cũng sẽ được xác định theo quy định của quốc gia có tài sản.