Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Luật sư Hà Thị Khuyên
Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ việc mở rộng thẩm quyền xét xử của Tòa án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại Tòa án, trong đó tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước Tòa án. Để Tòa án nhân dân thực hiện đúng đắn quyền tư pháp theo Hiến định, Tòa án nhân dân không chỉ là cơ quan áp dụng pháp luật để trừng trị các hành vi vi phạm pháp luật của người dân, mà còn trở thành công cụ để người dân bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trước hành vi vi phạm của các cơ quan công quyền. Bảo đảm cho Tòa án được độc lập, Nghị quyết số 49-NQ/TW cũng đã định hướng rõ tổ chức hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính.
Cũng tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 quy định thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm. Trong các bản Hiến Pháp trước đó có quy định tương tự như Hiến pháp năm 1946 quy định khi xét xử các thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các cơ quan khác không được can thiệp; Hiến pháp năm 1959 quy định khi xét xử, Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 quy định khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật.
Như vậy, có thể thấy rằng trong đạo luật quan trọng nhất là Hiến pháp qua mọi thời kỳ thì nguyên tắc độc lập xét xử của tòa án luôn được đề cao. Với quy định này của Hiến pháp năm 2013 thì nguyên tắc độc lập xét xử có nội dung mới đó là Thẩm phán, Hội thẩm độc lập xét xử là độc lập trong mọi hoạt động của mình theo quy định của pháp luật tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến khi kết thúc phiên tòa xét xử chứ không chỉ giới hạn bởi khi xét xử như quy định của Hiến pháp năm 1992. Việc nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm trong công tác xét xử và cũng là đảm bảo cho nguyên tắc này phải được thực thi trong thực tiễn xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm.
Theo quy định tại Điều 102 Hiến pháp năm 2013, thì Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, Tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, là cơ quan xét xử duy nhất của Nhà nước, chỉ có Tòa án là cơ quan có thẩm quyền xử lý các vi phạm pháp luật bằng chế tài nhà nước, giải quyết các tranh chấp bằng quyền lực nhà nước. Do vậy, khi nói đến quyền tư pháp là nói đến quyền của Tòa án và chỉ là Tòa án, cơ quan thực hiện quyền tư pháp duy nhất chỉ là Tòa án.
Tòa án với tư cách cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tòa án thông qua chức năng xét xử thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm. Theo đó, độc lập tư pháp được xem xét ở 3 góc độ: Độc lập của quyền tư pháp, độc lập của Tòa án và độc lập của Thẩm phán.
Để thống nhất nhận thức trong toàn xã hội về độc lập tư pháp, độc lập của Tòa án trong thực hiện nhiệm vụ của mình, cần thiết phải nhận thức rõ các yếu tố bảo đảm cho sự độc lập tư pháp, độc lập của Tòa án, trên cơ sở đó xây dựng các thể chế, quy định phù hợp, thuận lợi trong triển khai thực hiện công tác Tòa án.
Hiện nay, việc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc bắt buộc của tòa án và được mọi quốc gia trên thế giới rất tuân thủ, thực hiện một cách sâu rộng và triệt để. Nhà nước và toàn xã hội có trách nhiệm bảo đảm cho tòa án, cụ thể là thẩm phán không bị bất cứ sự can thiệp nào cả trên phương diện tổ chức và hoạt động, để bảo đảm tính độc lập của tòa án cần hướng đến các vấn đề như tổ chức tòa án theo thẩm quyền xét xử và không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, hướng đến thành lập tòa án khu vực trên cơ sở sáp nhập các tòa án cấp huyện, tổ chức các tòa chuyên trách sơ thẩm khu vực tùy thuộc vào tính chất và quy mô các vụ việc phải giải quyết. Theo đó bao gồm: Tòa sơ thẩm về sở hữu trí tuệ; tòa án sơ thẩm hành chính khu vực, thực hiện quy trình phân công thụ lý án ngẫu nhiên, phân công ngẫu nhiên thẩm phán và hội thẩm trong hội đồng xét xử; tổ chức hợp lý việc quản lý thẩm phán; điều kiện bảo đảm hoạt động của tòa án và thẩm phán không phụ thuộc vào cơ quan hành chính.
Bên cạnh đó, cần ban hành các quy định về việc tham gia các hoạt động xã hội và kinh doanh của thẩm phán, thẩm phán không được tham gia bất cứ hoạt động phát sinh lợi nhuận nào trừ giảng dạy, tham gia công tác đào tạo, nghiên cứu trong các cơ sở giáo dục đào tạo luật và nghiên cứu khoa học với thời lượng hợp lý để không làm ảnh hưởng đến chuyên môn xét xử; xây dựng cơ chế phòng ngừa sự can thiệp vào hoạt động xét xử bằng cách công khai mọi văn bản can thiệp để các bên tham gia tố tụng có thể tra cứu; kiện toàn cơ chế bảo vệ thẩm phán đã thực thi nhiệm vụ đúng pháp luật, xây dựng các quy phạm để xử lý những hành vi xâm phạm sự tôn nghiêm của tư pháp; đổi mới cơ chế quản lý, tuyển chọn, đánh giá, bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của tòa án.
Để đảm bảo nguyên tắc độc lập trong xét xử, thì cần thực hiện đồng bộ các nguyên tắc khác trong quá trình xét xử tạo sự thay đổi mang tính hệ thống. Vì vậy, Hiến pháp năm 2013 còn quy định rõ Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn, đây là nội udng được quy định trong pháp luật tố tụng theo hướng những vụ việc đơn giản, rõ ràng thì chỉ cần một Thẩm phán xem xét giải quyết chứ không cần Hội đồng xét xử như hiện nay, nhằm những vụ việc đó được giải quyết nhanh chóng, kịp thời nhưng vẫn đảm bảo đúng pháp luật và đạt hiệu quả, tiết kiệm về thời gian cho những người tham gia tố tụng.
Ngoài ra, hoạt động tranh tụng trong xét xử được đảm bảo, thể hiện tại Điều 13 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, thực tiễn xét xử cho thấy mô hình tố tụng tại phiên tòa của Việt Nam theo hướng thẩm vấn kết hợp với tranh tụng, các chứng cứ, tình tiết của vụ án đã được những người tham gia tố tụng trình bày khách quan tại phiên tòa và trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử ra các phán quyết nhằm đảm bảo các phán quyết đó chính xác, đúng pháp luật. Vì vậy, chất lượng xét xử của Tòa án các cấp trong thời gian vừa qua cũng đã được nâng lên, giảm các vụ, việc oan, sai. Từ cơ sở thực tiễn đó và nhằm thể chế các quan điểm của Đảng về xác định mô hình tố tụng Việt Nam, Hiến pháp sửa đổi đã quy định nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo. Xuất phát từ quy định này của Hiến pháp, pháp luật tố tụng phải quy định chi tiết, cụ thể về tranh tụng tại phiên tòa của tất cả các lĩnh vực xét xử.
Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được đảm bảo khẳng định hai cấp xét xử là cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm. Hoạt động giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án không phải là cấp xét xử. Có như vậy thì những vụ việc được Tòa án giải quyết xét xử đã có hiệu lực pháp luật (đã qua giải quyết xét xử ở cấp phúc thẩm) phải được thi hành, tránh khiếu nại kéo dài. Đương nhiên, nguyên tắc này nhằm xác định trách nhiệm của ngành Tòa án trong công tác xét xử sơ thẩm và phúc thẩm của Tòa án các cấp có thẩm quyền đó phải đảm bảo chất lượng xét xử cao nhất. Nội dung này đã được thể hiện tại Điều 6 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Đặc biệt mới đây tại Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII nêu rõ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, Nghị quyết cũng đã đề ra nhiệm vụ đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Giải pháp là hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử, Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; kết hợp các phương thức phi tố tụng tư pháp với các phương thức tố tụng tư pháp; đổi mới và nâng cao hiệu quả cơ chế nhân dân tham gia xét xử tại Tòa án; hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp Tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của Thẩm phán, Hội thẩm khi xét xử.
Xác định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; xây dựng Tòa án điện tử; xác định thẩm quyền của tòa án để thực hiện đầy đủ, đúng đắn quyền tư pháp; mở rộng thẩm quyền của tòa án trong xét xử các vi phạm hành chính, quyết định một số vấn đề liên quan đến quyền con người, quyền công dân.
Đề xuất làm rõ thẩm quyền hội đồng xét xử khởi tố vụ án tại phiên tòa, những trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử; quy định rõ hơn thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền tư pháp; của cơ quan tư pháp trong kiểm soát các cơ quan thực hiện quyền hành pháp, quyền lập pháp.
Sau một thời gian dài áp dụng nguyên tắc tòa án xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật, nguyên tắc này đã được luật hóa và được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, cùng với việc tổ chức thực hiện Luật Tổ chức tòa án nhân dân, hiện tại hệ thống Tòa án Việt Nam đã được kiện toàn, phát triển cả về tổ chức và hoạt động; Đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, công chức Tòa án được củng cố, tăng cường cả về số lượng và chất lượng; Chất lượng xét xử, giải quyết các vụ việc được bảo đảm, tỷ lệ các bản án, quyết định bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán ngày càng giảm, đáp ứng chỉ tiêu, yêu cầu của Quốc hội. Công tác xây dựng pháp luật, tổng kết thực tiễn xét xử của các Tòa án, bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử được thực hiện một cách hiệu quả, tạo điều kiện cho Tòa án các cấp thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình. Cơ sở vật chất của các Tòa án đã có bước cải thiện đáng kể góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn các yêu cầu và nhiệm vụ chính trị đặt ra đối với công tác Tòa án.
Tài liệu tham khảo:
1. Trương Hòa Bình, Độc lập tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN, bảo đảm cho Tòa án thực hiện đúng đắn quyền tư pháp, Báo Nhân dân, 2014.
2. Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992, 2013.
3. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
4. Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII.
5. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338