Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Luật sư Hà Thị Khuyên
Theo quy định tại khoản 1, Điều 109 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 việc áp dụng biện pháp ngăn chặn khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội hoặc để bảo đảm thi hành án; để kịp thời ngăn chặn tội phạm. Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự có thể kể tới như giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú, tạm hoãn xuất cảnh.
Theo quy định người thân thích của bị can, bị cáo có thể làm đơn bảo lĩnh hoặc có đơn yêu cầu đặt tiền để bảo đảm, gửi tới cơ quan tố tụng đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo, đây là một thủ tục tố tụng hình sự được quy định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự và phải được sự chấp thuận của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Tại Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định biện pháp “Tạm giam” có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng; đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng thì đương nhiên biện pháp tạm giam không phải là biện pháp bắt buộc đối với bị can, bị cáo. Tuy nhiên, bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng có thể bị tạm giam nếu không có nơi cư trú rõ ràng, bỏ trốn, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn, tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội, có hành vi mua chuộc cưỡng ép xúi giục người khác khai báo gian dối cung cấp tài liệu sai sự thật, tiêu hủy giả mạo chứng cứ tài liệu đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án, đe dọa khống chế trả thù người làm chứng, người bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.
Riêng trường hợp bị can, bị cáo bị bệnh nặng, là người già yếu, bị can đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi, bị can là phụ nữ có thai nếu có nơi cư trú rõ ràng, có lý lịch rõ ràng thì không áp dụng biện pháp tạm giam nếu không thuộc các trường hợp quy định tại điểm a, b, c, đ khoản 4, Điều 119 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
Đối chiếu quy định nêu trên, cùng các điều kiện thức tế của bị can, bị cáo như tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo mà cơ quan tố tụng có thể quyết định cho bị can, bị cáo hoặc người thân thích của bị can, bị cáo được bảo lĩnh theo quy định tại Điều 121 hoặc đặt tiền để bảo đảm theo quy định tại Điều 122 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; tuy nhiên cơ quan tố tụng sẽ xem xét đơn, đánh giá xem xét tổng thể các điều kiện thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo đảm bảo tính khách quan và đúng quy định pháp luật.
Về yêu cầu và điều kiện bảo lĩnh, người đứng ra bảo lĩnh và bị can, bị cáo được bảo lĩnh được quy định tại Điều 121 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, cụ thể bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế cho tạm giam, tuy nhiên cơ quan tố tụng sẽ căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo để có thể quyết định cho cho bị can, bị cáo được bảo lĩnh. Phải có ít nhất 02 người có quan hệ thân thích đừng ra bảo lĩnh, đối với cá nhân đứng ra bảo lĩnh phải là người đủ 18 tuổi trở lên, có nhân thân tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, có thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bản lĩnh, thì có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người thân thích của mình. Nếu được cơ quan tố tụng chấp thuận, những người đứng ra bảo lĩnh cho bị can, bị cáo phải làm giấy cam đoan, giấy cam đoan này phải có xác nhận của chính quyền địa phương nơi người bảo lĩnh cư trú, trong giấy cam đoan người đứng ra bảo lĩnh phải cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ của bị can, bị cáo đang được bảo lĩnh; bị can được bảo lĩnh phải có mặt theo giấy triệu tập, phải không được bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội, không được mua chuộc cưỡng ép xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật, không tiêu hủy giả mạo chứng cứ đồ vật của án, không tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án, không đe dọa khống chế trả thù người làm chứng, người bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của họ.
Về yêu cầu và điều kiện đặt tiền bảo đảm, cơ quan tố tụng sẽ xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, nhân thân và tình trạng tài sản của bị can, bị cáo để có thể quyết định cho bị can, bị cáo hoặc người thân thích được đặt tiền bảo đảm thay thế tạm giam. Tại khoản 2, Điều 122 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 nêu rõ, nếu được chấp thuận bị can, bị cáo được đặt tiền phải làm giấy cam đoan có mặt theo giấy triệu tập, không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, không tiêu hủy chứng cứ, không đe dọa người làm chứng, bị hại, người tố giác… trường hợp nếu bị can, bị cáo vi phạm những quy định trên thì sẽ bị tạm giam trở lại và số tiền đã đặt sẽ bị tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Trường hợp người thân thích của bị can, bi cáo được cơ quan tố tụng chấp thuận cho đặt tiền bảo đảm thì phải làm giấy cam đoan không để bị can, bị cáo vi phạm các nghĩa vụ theo quy định, nếu vi phạm số tiền người thân thích đã đặt sẽ bị tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
Số tiền đặt bảo đảm cho bị can, bị cáo được quy định cụ thể tại Thông tư liên tịch số 06/2018, tiền đặt để bảo đảm là Việt Nam đồng, thuộc sở hữu hợp pháp của bị can, bị cáo, người thân thích của bị can, bị cáo. Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án quyết định mức tiền cụ thể mà bị can, bị cáo phải đặt để bảo đảm, nhưng không dưới 30 triệu đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng; 100 triệu đồng đối với tội phạm nghiêm trọng; 200 triệu đồng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và 300 triệu đồng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.