Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay đã có một vị trí đứng rất quan trọng trong xã hội, đội ngũ luật sư không chỉ phát triển mạnh mẽ về số lượng, mà về chất lượng đội ngũ luật sư hiện nay được đào tạo khá bài bản, là lực lượng trí thức có nhiều đóng góp to lớn cho công cuộc phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0, nghề luật sư Việt Nam cũng đứng trước những thuận lợi và khó khăn, cơ hội và thách thức, song dưới dự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước và Liên Đoàn Luật sư Việt nam chắc chắn đội ngũ luật sư Việt Nam sẽ biến những thách thức thành cơ hội để phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
1. Nghề luật sư Việt Nam lịch sử hình thành và phát triển
Năm 1884, sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, Toàn quyền Pháp ký Sắc lệnh thành lập Luật sư Đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội gồm các luật sư người Pháp và người Việt đã nhập quốc tịch Pháp. Các luật sư chỉ biện hộ trước Tòa án Pháp cho người Pháp hoặc người có quốc tịch Pháp. Sau đó, với Sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng cho người Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm luật sư. Tiến thêm một bước, nhà cầm quyền Pháp ký Sắc lệnh ngày 25/5/1930 về tổ chức Luật sư đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Sắc lệnh này đã mở rộng cho các luật sư không chỉ biện hộ ở tòa án Pháp mà cả trước Toà án Việt Nam; không chỉ bào chữa cho người có quốc tịch Pháp mà cả người không có quốc tịch Pháp, người Việt Nam đầu tiên làm luật sư là ông Phan Văn Trường (1876 - 1933). Ông là người Từ Liêm, Hà Nội, tốt nghiệp Đại học luật và làm luật sư tại Paris, ông là một nhà trí thức yêu nước. Tại con đường có trụ sở Học viện Tư pháp tọa lạc (nơi đào tạo nghề luật sư duy nhất ở Việt Nam hiện nay) mang tên Phan Văn Trường vị luật sư đầu tiên của Việt Nam.
Cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân thì bộ máy tư pháp nước ta cũng được tổ chức lại, hơn một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người đứng đầu chính quyền mới đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Sắc lệnh số 46/SL duy trì tổ chức luật sư cũ trong đó có sự vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật cũ về luật sư nhưng không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 khẳng định quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, cụ thể Điều 67 của Hiến Pháp quy định "Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
Trong hoàn cảnh lịch sử với cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ kế tiếp nhau, toàn dân ta đã phải tập trung sức người, sức của cho nhiệm vụ cứu nước, trong điều kiện đó tổ chức luật sư không thể duy trì, nhiều luật gia, luật sư đã xung phong lên đường ra mặt trận, lên chiến khu hoặc tham gia vào hoạt động tư pháp tại các vùng do chính quyền ta kiểm soát, nghề luật sư giai đoạn này gặp muôn vàn khó khăn. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn quan tâm đến việc bảo đảm quyền bào chữa trước Toà án của bị cáo, một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi trong Hiến pháp. Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định nguyên cáo, bị cáo có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình, tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1959 (Điều 101) đã quy định “Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm”; tiếp đó Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 ngoài việc khẳng định bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, còn quy định việc thành lập tổ chức luật sư để giúp cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Để thực hiện quy định của Hiến pháp, trong giai đoạn triển khai xây dựng văn bản pháp luật về tổ chức luật sư, đội ngũ bào chữa viên tiếp tục được củng cố và phát triển, cụ thể ngày 31/10/1983 Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 691/QLTPK về công tác bào chữa, trong đó quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện làm bào chữa viên, quy định ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập một Đoàn bào chữa viên. Riêng ở 02 thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh thì thành lập Đoàn luật sư, bào chữa viên, tập hợp các luật sư đã được công nhận trước đây và các bào chữa viên, đến cuối năm 1987, trên cả nước đã có 30 Đoàn bào chữa viên với gần 400 bào chữa viên.
Sau ngày thống nhất đất nước, với yêu cầu khách quan, mang tính sống còn là phải đổi mới, xoá bỏ cơ chế quan liêu-bao cấp và mở rộng dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV năm 1986 đã mở đầu một thời kỳ lịch sử mới xây dựng đất nước, thời kỳ đổi mới. Đường lối đổi mới do Đại hội vạch ra đã tác động sâu rộng đến mọi mặt hoạt động trong xã hội, trong đó có hoạt động tư pháp. Các đạo luật về tố tụng được ban hành theo hướng mở rộng dân chủ trong tố tụng, trong đó có việc tăng cường bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước Toà án và các cơ quan tố tụng khác. Đó cũng chính là tiền đề quan trọng để vực dậy mạnh mẽ hơn nghề luật sư ở nước ta. Trong bối cảnh đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư được ban hành ngày 18/12/1987. Có thể nói, đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa lịch sử trong việc khôi phục nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát triển nghề luật sư ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Pháp lệnh quy định rõ tiêu chuẩn được công nhận là luật sư, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực giúp đỡ pháp lý của luật sư và tổ chức các Đoàn luật sư ở các tỉnh, thanh phố trực thuộc Trung ương. Chỉ sau gần 10 năm thi hành Pháp lênh, ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Đoàn luật sư; đội ngũ luật sư trong cả nước đã đạt tới con số hàng ngàn luật sư. Hoạt động luật sư cũng có bước phát triển đáng kể. Ngoài việc tăng cường một bước về số lượng và chất lượng tham gia tố tụng của luật sư trong các vụ án hình sự, dân sự, các luật sư đã từng bước mở rộng hoạt động hành nghề sang lĩnh vực tư vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
Sang nửa cuối thập niên 90, đất nước ta bước vào giai đoạn quan trọng của quá trình đổi mới, trong đó nhu cầu đẩy mạnh quá trình xây dựng cơ chế thị trường, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ, hội nhập quốc tế ngày càng trở lên sâu sắc, ở mức độ cao hơn. Nên để đáp ứng nhu cầu mới, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành; nội dung của Pháp lệnh thể hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta theo hướng chính quy hoá, chuyên nghiệp hoá đội ngũ luật sư, nghề luật sư, tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam. Chỉ sau 5 năm thi hành Pháp lệnh, đội ngũ luật sư đã tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, trong 5 năm đó các luật sư đã thành lập trên 1.000 tổ chức hành nghề là các văn phòng luật sư, các công ty luật hợp danh. Các Đoàn luật sư được xây dựng lại và củng cố để làm đúng chức năng của tổ chức xã hội - nghề nghiệp tự quản của các luật sư. Hoạt động hành nghề của luật sư cũng được tăng lên đáng kể về phạm vi và chất lượng. Có thể nói, Pháp lệnh luật sư năm 2001 là văn bản mở đầu cho quá trình chuyên nghiệp hoá và hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam, đã tạo một bộ mặt mới với triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề luật sư ở nước ta.
Đảng và Nhà nước ta luôn đã thể hiện mối quan tâm đặc biệt giành cho nghề luật sư, cụ thể Nghị quyết 08- NQ/TW về cải cách tư pháp và Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị đã chỉ rõ vai trò của luật sư trong nền tư pháp nước nhà. Luật Luật sư 2006 thay thế Pháp lệnh luật sư năm 2001 (trước đó nữa là Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987) đã thể hiện thành tựu tích cực của hoạt động lập pháp đối với nghề luật sư. Đặc biệt, khi mà nhu cầu của xã hội đối với nghề luật sư ở nước ta được thể hiện ngày càng cao, thì Đảng và Nhà nước đã có những sự quan tâm lớn, thể hiện bằng việc cụ thể hóa đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước đối với nghề luật sư. Sự kiện Luật Luật sư được ban hành và đi vào đời sống đã góp phần nâng cao vị thế của luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng một đội ngũ luật sư, nghề luật sư mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm với luật sư, nghề luật sư ở các nước trong khu vực và thế giới. Bởi vậy, có thể nói Luật Luật sư là dấu mốc đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của pháp luật về luật sư ở Việt Nam, qua đó mở ra nhiều triển vọng mới cho nghề luật sư.
Trước những yêu cầu mới của xu thế toàn cầu hoá, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta đã có những bước phát triển nhanh và mạnh mẽ với những sự kiện quan trọng mang tính chất đột phá. Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đã tạo ra vị thế và những cơ hội mới phát triển đất nước, đồng thời cũng đặt ra nhiệm vụ quan trọng là phải chuyển đổi hệ thống pháp luật và các thiết chế cùng cơ chế vận hành theo lộ trình phù hợp với các cam kết khi gia nhập WTO. Trong các năm 2005, 2006, 2007, Nhà nước ta đã ban thành một số lượng lớn các đạo luật mới hoặc thay thế các đạo luật không còn phù hợp, trong đó có Luật Luật sư được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007 và tiếp tục được sửa đổi bổ sung, hoàn thiện vào năm 2012 để phù hợp với tình hình thực tiễn của nghề luật sư.
Hiện tại, nghề luật sư tại Việt Nam đã có đầy đủ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành điều chỉnh như: Luật Luật sư, Bộ Quy tắc Đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam, cùng với sự bổ trợ của hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật liên ngành khác. Đây là hành lang pháp lý quan trọng để nghề luật sư Việt Nam phát triển mạnh mẽ và hội nhập quốc tế, là kim chỉ nam xuyên suốt cho kế hoạch và hành động của các luật sư thành viên trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, biến những khó khăn, thách thức thành cơ hội.
2. Cơ hội và thách thức của nghề luật sư bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
2.1. Cơ hội nghề luật sư trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Thuận lợi lớn nhất là sự lớn mạnh của đội ngũ luật sư cả về số lượng, chất lượng và năng lực của luật sư Việt Nam, ngoài ra hằng năm một một lực lượng cán bộ thuộc cơ quan tố tụng như Tòa án, Viện kiểm sát, Công an, cán bộ thuộc các cơ quan nhà nước… khi nghỉ hưu mong muốn tiếp tục được cống hiến cho nghề luật sư, bởi vậy mà đội ngũ luật sư ngày càng lớn mạnh, phát triển mạnh mẽ. Chỉ tính riêng đội ngũ luật sư đang hành nghề tại địa bàn hai thành phố có mức phát triển kinh tế và đầu tư cao là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Sự phát triển về đội ngũ luật sư không chỉ nói lên nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý ngày càng tăng với việc phát triển kinh tế - xã hội, mà còn thể hiện khả năng đáp ứng về kỹ năng hành nghề của đội ngũ luật sư đối với nhu cầu ngày càng phức tạp của khách hàng. Nếu như trước đây, những vấn đề khúc mắc về doanh nghiệp chỉ có thể giải quyết được ở các văn phòng luật nước ngoài, thì nay luật sư trong nước hoàn toàn có khả năng thực hiện những vấn đề này. Đặc biệt khi Việt Nam tham gia WTO, cùng với khối lượng giao thương trong nước và thế giới ngày càng mở rộng, thì khả năng đáp ứng được các nhu cầu về dịch vụ pháp lý doanh nghiệp của đội ngũ luật sư trong nước đã trở nên hết sức cấp bách. Do vậy, sự trưởng thành về lực lượng và trình độ của đội ngũ luật sư trong nước không chỉ góp phần giúp đỡ cho các doanh nghiệp Việt Nam mà còn tạo ra sự thuận lợi hơn trong việc chọn lựa về nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp kinh doanh pháp lý trong nước.
Hiện tại đã có hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật liên quan điều chỉnh và bổ trợ cho hoạt động hành nghề của luật sư Việt Nam đây là một thuận lợi to lớn, có thể nói đến các văn bản: Luật Luật sư (2006), Luật Luật sư (sửa đổi, bổ sung năm 2012), Văn bản hợp nhất Luật Luật sư (2015), Nghị định số 4529/VBHN-BTP ngày 26 tháng 11 năm 2018 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Luật sư, Bộ Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam (Ban hành kèm theo Quyết định số 201/QĐ-HĐLSTQ ngày 13/12/2019 của Hội đồng luật sư toàn quốc)... Những văn bản này đã góp phần hoàn thiện pháp luật về luật sư và tạo hành lang pháp lý tương đối đầy đủ cho việc hành nghề luật sư ở Việt Nam, từ việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của luật sư cho đến việc quy định thành lập tổ chức, quá trình hành nghề, tạm dừng, chấm dứt hoạt động của tổ chức hành nghề luật sư.
Việc hành nghề luật trong điều kiện hội nhập toàn diện của Việt Nam, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ, có nghĩa khá lớn cho đội ngũ luật sư hiện đang hành nghề luật của nước ta được tiếp cận với một thị trường dịch vụ hoàn toàn mới mẻ và rộng lớn, nhiều cơ hội đổi mới, tiếp cận với tư duy pháp lý mới và ứng dụng công nghệ AI (trí tuệ nhân tạo) vào giải quyết công việc khi tòa án trung tâm của hoạt động tư pháp cũng có nhiều thay đổi để phù hợp với tình hình mới, thì đội ngũ luật sư cũng phải thích ứng, cập nhật kị thời thực trạng xét xử có sự trợ giúp của công nghệ. Trước đây các dịch vụ pháp lý phi hình sự được cung ứng chủ yếu là việc tham gia các vụ tranh tụng về kinh tế và dân sự của các đơn vị kinh tế và cá nhân trong nước, việc soạn thảo và thương lượng các hợp đồng kinh tế thường được bộ phận kinh doanh của các doanh nghiệp tự thực hiện, chính vì vậy mà hoạt động tư vấn của luật sư rất hạn chế. Trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa và cách mạng công nghiệp 4.0, song song với làn sóng đầu tư từ nước ngoài đổ vào trong nước, những loại hình kinh doanh trong nước đang ngày càng đa dạng và phức tạp hơn như lĩnh vực sở hữu trí tuệ, thị trường chứng khoán, thị trường công cụ tài chính. Đặc biệt, các doanh nghiệp trong nước trong quá trình mở rộng tầm kinh doanh của mình ra thế giới đã phải đương đầu với những quy định pháp lý khác nhau, phát sinh những tranh chấp mang tính quốc tế, đội ngũ luật sư phải thích ứng với việc tranh tụng quốc tế có sử dụng yếu tố công nghệ hỗ trợ.
Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã tổ chức được nhiều lớp công tác bồi dưỡng luật sư về chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng hành nghề, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp. Trong Quyết định số 2655/QĐ-BTP ngày 28 tháng 10 năm 2019 về điều chỉnh, bổ sung Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức Bộ Tư pháp năm 2019 mở một số lớp bồi dướng liên quan đến hành nghề luật sư như: Lớp Đào tạo chung Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư khóa 2; Lớp Đào tạo luật sư phục vụ hội nhập quốc tế khóa 3; Lớp Đào tạo nghề luật sư chất lượng cao khóa 1... Trong đó, bồi dưỡng về quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư được coi trọng, đã góp phần vào việc xây dựng các giá trị chuẩn mực, hạn chế những vi phạm đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ luật sư.
Công tác bảo vệ quyền hành nghề hợp pháp của luật sư, giải quyết khiếu nại, tố cáo có liên quan tới luật sư; hoạt động khen thưởng, kỷ luật luật sư được coi trọng và bảo đảm đúng quy định, tạo lập niềm tin của chính đội ngũ luật sư khi hành nghề. Sự vào cuộc chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời của lãnh đạo Liên đoàn Luật sư Việt Nam khi luật sư bị gây khó dễ, bị xâm phạm quyền hành nghề trong những năm gần đây cũng được quan tâm, sát sao khiến đội ngũ luật sư yên tâm hành nghề.
2.2. Thách thức của nghề luật sư trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0
Luật sư đã tham gia giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, luật sư Việt Nam với nhiều kinh nghiệm, kỹ năng tham gia hành nghề tại tòa án nhưng vẫn còn chưa quen thuộc với hoạt động tham gia tố tụng trọng tài, tranh chấp mang tính quốc tế, nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0 nảy sinh nhiều tranh chấp trong việc giao thương kinh tế giữa các quốc gia ở các khu vực khác nhau. Trong tố tụng trọng tài, ngôn ngữ sử dụng có thể là ngôn ngữ khác tiếng Việt, mà thông thường là tiếng Anh, đối với trường hợp quan hệ tranh chấp có yếu tố nước ngoài hoặc tranh chấp với một bên có vốn đầu tư nước ngoài. Do trình độ ngoại ngữ của luật sư Việt Nam còn hạn chế nên nhiều trường hợp luật sư cần có phiên dịch trong các phiên xử trọng tài, dẫn đến tốn kém chi phí và kéo dài thời gian tố tụng.
Số lượng luật sư Việt Nam hiện có so với dân số còn rất thấp và có sự phát triển mất cân đối lớn giữa các vùng, miền. Tính đến thời điểm tháng 9/2019, tổng số luật sư cả nước là 13.563 luật sư. Nếu chia bình quân đầu người theo dân số của Việt Nam tỷ lệ xấp xỉ là 01 luật sư/7.148 người dân. Trong đó, Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội có 3.850 luật sư, Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh có 5.498 luật sư, chiếm hơn 2/3 tổng số luật sư của cả nước, còn lại 61 Đoàn luật sư có số lượng là 4.215 luật sư, chiếm 31%. Tại các địa phương này, số lượng luật sư không đủ để đáp ứng nhu cầu về dịch vụ pháp lý của người dân và ngay cả trong việc thực hiện bào chữa trong các vụ án bắt buộc có sự tham gia của luật sư (án chỉ định).
Phương pháp quản lý điều hành của các tổ chức hành nghề luật sư rất đa dạng và phong phú nhưng không có sự thống nhất, phần lớn các tổ chức hành nghề luật sư áp dụng phương pháp truyền thống là phân công công việc trực tiếp đến từng người. Số lượng các tổ chức hành nghề áp dụng phương pháp điều hành, quản lý theo nhóm, có giao ban công việc hàng tuần, hàng tháng chỉ chiếm số lượng rất nhỏ, thậm chí một số tổ chức hành nghề luật sư quản lý công việc một cách tùy tiện, lỏng lẻo, người đứng đầu tổ chức hành nghề không nắm rõ được toàn bộ các công việc của tổ chức mình. Số lượng tổ chức hành nghề luật sư áp dụng phương pháp quản trị, điều hành theo thông lệ quốc tế còn quá ít do quy mô của tổ chức rất nhỏ.
Việc gia tăng về số lượng luật sư cũng tạo nên thách thức: Đó là sự cạnh tranh gay gắt trong nội bộ những người hành nghề luật. Do điều kiện phát triển kinh tế tại Việt Nam chưa được cân đối về mặt địa lý, vì vậy lực lượng luật sư trên toàn quốc hầu hết đều chỉ tập trung tại hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Sự phân bổ mật độ thiếu cân đối này đã tạo ra một áp lực cạnh tranh rất gay gắt để tồn tại và phát triển trong đội ngũ luật sư. Việc canh tranh diễn ra trên cả hai mặt: Chất lượng chuyên môn dịch vụ và thương mại. Các công ty luật, văn phòng luật sư không chỉ nhắm đến việc cung ứng cho khách hàng những dịch vụ với chất lượng chuyên môn và kết quả cao nhất bằng việc quy tụ được những nhân sự giỏi nhất, áp dụng những công nghệ kỹ thuật văn phòng mới nhất, mà còn phải tạo ra những ưu thế về mặt thương mại của mình như vị trí thuận lợi của văn phòng, những chiến lược tiếp thị, tuyển dụng ngày càng đắt tiền. Cạnh tranh tạo ra sự mâu thuẫn về lợi ích, trong khi đó để môi trường pháp lý và nghề luật sư phát triển còn cần cả sự hợp tác. Tính cạnh tranh cao trong một khu vực địa lý hẹp đã tạo thành những rào cản vô hình cho việc hợp tác giữa các tổ chức, cá nhân hành nghề luật.
Về việc bảo vệ quyền hành nghề luật sư và bảo vệ luật sư, trên thực tế dù các quy định của pháp luật đã quy định quyền tham gia tố tụng của luật sư, nhưng trong quá trình hành nghề tiếng nói, vai trò của luật sư chưa thực sự có giá trị. Nhiều luật sư trong quá trình hành nghề đã đành phải chấp nhận những rủi ro ngoài mong muốn, họ thậm chí còn bị đe dọa về tính mạng, sức khỏe. Như trường hợp luật sư Nguyễn Hồng Hà (Đoàn luật sư tỉnh Khánh Hòa) bị đánh trong lúc đang chờ xử án tại Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa. Những biểu hiện về sự coi thường pháp luật, xâm hại đến quyền hành nghề của luật sư cả trong và ngoài phiên tòa đang diễn ra ngày càng phổ biến nhưng chưa có những giải pháp thực sự hữu hiệu để đảm bảo rằng luật sư được hành nghề với đầy đủ quyền của mình, đồng thời được bảo vệ khỏi sự xâm hại về sức khỏe và tính mạng.
3. Kết luận
Hiện nay Quốc hội cùng các bộ ngành liên quan đang tiếp tục nâng cao chất lượng xây dựng và thực thi pháp luật, đi sâu sửa đổi và ban hành các đạo luật trên các lĩnh vực cụ thể điều chỉnh tổ chức bộ máy Nhà nước từ trung ương tới địa phương, các đạo luật chuyên nghành phù hợp với bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 và yêu cầu mới trong phát triển đất nước và quan hệ quốc tế. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, khoảng cách giữa không gian vật lý và không gian kỹ thuật số đang dần được thu hẹp, xuất hiện nhiều thay đổi to lớn và kèm với đó là thể chế cùng khung pháp luật cần được thay đổi để bắt kịp với xu hướng mới, sử dụng công nghệ số trong ban hành, quản lý và phổ biến pháp luật, thậm chí sửa luật để quy định việc sử dụng trí tuệ nhận tạo AI phục vụ cho quá trình tư vấn pháp luật của luật sư, quá trình xét xử của tòa án (như việc tiếp nhận đơn, thụ lý vụ án, ra các phán quyết)… Vì vậy, không chỉ các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, mà ngay cả những tổ chức hành nghề luật, các luật sư tư vấn pháp luật, cung cấp dịch vụ pháp lý phải luôn cập nhật, đổi mới tư duy và thích ứng với không chỉ với vấn đề pháp lý trong nước mà còn cả vấn đề pháp lý mang tính toàn cầu, kết nối số và sử dụng công nghệ trong hoạt động nghề nghiệp và cung cấp dịch vụ tới người dân, tới các tổ chức trong và ngoài nước.
Để Luật sư và nghề luật sư có được một chỗ đứng xứng tầm trong xã hội như ngày hôm nay, không thể không kể đến công lao đóng góp to lớn của những thế hệ luật sư đi trước, những người đã đặt nền móng cho Luật sư, nghề luật sư Việt Nam phát triển và hội nhập. Trải qua bao biến cố của lịch sử, nhưng ở giai đoạn nào những sự kiện nổi bật của đất nước đều có dấu ấn không hề nhỏ của luật sư; từ tham gia phản biện xã hội, xây dựng chính sách pháp luật, cho đến hiến kế phát triển kinh tế - xã hội. Và đến nay, có thể nói luật sư là đội ngũ trí thức tiêu biểu nhất, có nhiều đóng góp lớn cho Đảng và Nhà nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Văn phòng Quốc hội (2015). Luật số 03/VBHN-VPQH: Luật Luật sư, ngày 31/12/2015.
2. Quốc hội (2014). Luật số 68/2014/QH13: Luật Doanh nghiệp, ngày 26/11/2014.
3. Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư Việt Nam số 201/QĐ-HĐLSTQ, ngày 13/12/2019.
4. Bùi Mến (2019), “Liên đoàn Luật sư Việt Nam: 10 năm một chặng đường”, https://baophapluat.vn/trong-nuoc/lien-doan-luat-su-viet-nam-10-nam-mot-chang-duong-474394.html
5. Đoàn Vĩnh, Khánh Duy (2019), Kỷ niệm 74 năm truyền thống Luật sư Việt Nam và 10 năm thành lập Liên đoàn Luật sư Việt Nam, https://lsvn.vn/luat-su-va-cong-dong/hoat-dong-luat-su/ky-niem-74-nam-truyen-thong-luat-su-viet-nam-va-10-nam-thanh-lap-lien-doan-luat-su-viet-nam-33213.html
6. Viết Hảo (2018), Một luật sư bất ngờ bị hành hung trong lúc chờ xử án, https://dantri.com.vn/phap-luat/mot-luat-su-bat-ngo-bi-hanh-hung-trong-luc-cho-xu-an-20181221114152925.htm
7. Trần Trung (2020), Nghề luật sư - thực tiễn hành nghề tại Việt Nam. Tạp chí Công Thương.
Liên hệ tư vấn và mời luật sư: 0936683699 - 0983951338