Luật sư Trịnh Văn Dũng
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
1. Khái quát chung
Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của Nhà nước nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, công dân, cơ quan và tổ chức nói riêng, bảo vệ Nhà nước xã hội pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa nói chung.
Muốn vậy, công tác xét xử phải đảm bảo tính khách quan, toàn diện, tuân thủ đúng pháp luật, đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm nhưng cũng không xử oan người vô tội và khi xét xử, Thẩm phán (TP) và Hội thẩm nhân dân (HT) phải thực sự độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
Trong Nhà nước pháp quyền của chúng ta, tính độc lập của hoạt động tư pháp là một trong những đặc trưng cơ bản và được ghi nhận trong các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013), được cụ thể hóa trong các đạo luật quan trọng như Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân…
Trải qua quá trình phát triển, hệ thống pháp luật của nước ta không ngừng hoàn thiện từ lý luận, tư duy đến thực tiễn, thông qua hoạt động xét xử nguyên tắc TP và HT độc lập khi xét xử ngày càng thể hiện rõ và đi vào thực chất hơn, góp phần nâng cao chất lượng xét xử của Hội đồng xét xử (HĐXX) nói chung và nâng cao chất lượng giải quyết vụ án của TP, HT nói riêng.
2. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc độc lập xét xử qua các vụ án
Nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án (TA) hiện nay được cụ thể hóa trong Hệ thống pháp luật của Việt Nam, thông qua các điều luật được quy định tại Hiến pháp, Bộ luật, cụ thể Hiến pháp năm 2013; Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014; Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Ngoài ra, nguyên tắc độc lập xét xử còn được quy định cụ thể tại một số Bộ luật và các Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan.
Có thể nhận thấy tư tưởng xuyên suốt nguyên tắc nêu trên chủ yếu tập trung đề cao tính đúng đắn, khách quan trong hoạt động tư pháp của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, để đảm bảo hoạt động tố tụng được diễn ra một cách bình thường, đúng pháp luật, không bị các yếu tố khách quan, chủ quan tác động làm thay đổi bản chất hoặc làm méo mó tính đúng đắn của hoạt động tư pháp.
2.1. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập
2.1.1. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với yếu tố bên ngoài
Độc lập với các yếu tố bên ngoài được hiểu khi xét xử TP và HT độc lập với VKS, với TA và độc lập với các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân khác. Tuy nhiên hoạt động xét xử của TA được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát tối cao của Quốc Hội.
Hiện nay, theo qui định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân thì TA cấp trên, TA nhân dân tối cao vừa là cơ quan xét xử, vừa là cơ quan giám đốc việc xét xử của TA cấp dưới. Tuy nhiên, TA cấp trên chỉ quản lý TA cấp dưới về mặt chuyên môn nghiệp vụ và tổ chức hành chính còn TA cấp dưới vẫn có toàn quyền quyết định đối với những vụ việc thuộc thẩm quyền của mình. Pháp luật qui định nguyên tắc TP và HT xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật để đảm bảo cho TP và HT thực hiện quyền tự quyết của mình khi xét xử. Đồng thời buộc họ phải có nghĩa vụ và trách nhiệm cá nhân về tính đúng đắn, hợp pháp đối với các quyết định của mình khi giải quyết vụ án.
Trong quá trình xét xử TP và HT không chỉ độc lập với các cơ quan Nhà nước mà còn độc lập với các bên đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự; độc lập với bị can, bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích cho bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan…, và những người tham gia tố tụng khác. Ngoài ra, trong quá trình xét xử, TP và HT còn độc lập với các cơ quan báo chí và dư luận xã hội.
Tuy nhiên trong quá trình xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm có thể tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn, nắm bắt dư luận xã hội nhưng khi ra quyết định về vụ án, Thẩm phán và Hội thẩm phải thể hiện bản lĩnh nghề nghiệp của mình, xem xét các vấn đề của vụ án một cách độc lập, khách quan, không bị ảnh hưởng, bị ràng buộc bởi các quan điểm, ý kiến bên ngoài của vụ án. Hội đồng xét xử phải xem xét, thẩm tra, đánh giá chứng cứ và các tình tiết khác của vụ án một cách thận trọng, khoa học, toàn diện các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và tại phiên tòa. Quyết định của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa.
2.1.2. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập với nhau
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án. HT có quyền nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa để biết được nội dung cũng như những vấn đề cần phải giải quyết trong vụ án. Mối quan hệ giữa TP và HT trong giai đoạn này mang tính chất hỗ trợ nhau, nhưng vẫn phải có sự độc lập trong nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm tra, đánh giá các tài liệu chứng cứ làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án khách quan.
Tại phiên tòa tính độc lập giữa TP và HT càng được thể hiện rõ hơn. Tất cả các thành viên của HĐXX đều có quyền hỏi đương sự, bị cáo…, về những vấn đề liên quan đến vụ án. Tại phiên tòa TP - Chủ tọa phiên tòa hỏi trước, sau đó đến HT có quyền hỏi tất cả các vấn đề mà mình cho là cần thiết để giải quyết vụ án mà không phụ thuộc vào TP.
Khi xét xử, TP độc lập với HT trong việc đưa ra các kết luận của mình mà không lệ thuộc vào quan điểm, chính kiến của các thành viên khác trong HĐXX. Đối với HT, không một yêu cầu hay đề nghị nào của những người khác có thể làm ảnh hưởng tới việc HT áp dụng đúng pháp luật, theo đúng nội dung và tinh thần của điều luật đối với các tình tiết của vụ án cụ thể. Về nguyên tắc, TP không được áp đặt ý kiến đối với HT khi xét xử. Chỉ có thành viên HĐXX mới được tham gia nghị án, khi nghị án, HT biểu quyết trước, TP là người biểu quyết sau cùng. Các vấn đề của vụ án đều phải được giải quyết bằng biểu quyết và quyết định theo đa số.
Tóm lại độc lập xét xử của TP và HT không cho phép thành viên này được áp đặt ý kiến của mình lên các thành viên khác trong cùng một HĐXX. TP không được lấy quyền chủ tọa phiên tòa để áp đặt các quyết định của HT theo ý kiến của mình. Ngược lại, HT cũng không được dựa vào ưu thế số động để đánh giá, gây áp lực để giải quyết các vấn đề theo quan điểm của mình.
2.2. Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật
TP và HT chỉ tuân theo pháp luật ở đây có nghĩa là tuân theo cả luật nội dung và luật hình thức. Vì vậy, khi xét xử các vụ án, TP và HT phải căn cứ vào các qui định của các Bộ luật…, đối chiếu các tình tiết của vụ án để xác định trên thực tế có hành vi vi phạm pháp luật hay không. Đồng thời phải căn cứ vào các văn bản hướng dẫn thi hành để xác định thẩm quyền cũng như trình tự, thủ tục giải quyết vụ án.
Ngoài ra, TP và HT xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không có nghĩa là họ không chịu bất cứ một sự kiểm tra, giám sát nào. Mà ngược lại, theo qui định của pháp luật, hoạt động xét xử các vụ án luôn chịu sự kiểm sát của VKS và của TA cấp trên. Sự giám sát này không phải là can thiệp vào hoạt động xét xử của TP và HT mà nó nhằm đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật một cách chính xác và thống nhất. Có như vậy thì mới đảm bảo được tính đúng đắn và hợp pháp của các bản án, quyết định của TA.
2.3. Mối quan hệ giữa độc lập xét xử và tuân theo pháp luật
Độc lập xét xử và chỉ tuân theo pháp luật là mối quan hệ chặt chẽ với nhau, độc lập là điều kiện tiên quyết để TP và HT chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử, và ngược lại, chỉ tuân theo pháp luật là cơ sở cần thiết để TP và HT được độc lập khi xét xử. Mối quan hệ này là mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì sẽ dẫn đến sự tùy tiện, độc đoán, chủ quan, duy ý chí khi xét xử. Còn nếu chỉ tuân theo pháp luật mà không được độc lập thì có thể dẫn tới sự can thiệp trái phép từ phía các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào hoạt động xét xử của tòa án, làm mất đi tính độc lập của TP và HT.
2.4. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc TP và HT xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Nguyên tắc “TP, HT xét xử độc lập và tuân theo pháp luật” là nguyên tắc quan trọng được ghi nhận trong Hiến pháp và pháp luật. Thời gian qua việc thực hiện nguyên tắc này đã đạt được những kết quả nhất định, vai trò của HT trong công tác xét xử của ngành TA ngày càng phát huy và đi vào thực chất thông qua chất lượng giải quyết trong từng vụ án.
Tuy nhiên, cũng cần thẳng thắn nhìn nhận rằng một số nơi, việc tham gia xét xử của HT vẫn mang nặng tính hình thức, còn nhiều hạn chế. Nhiều HT chưa phát huy được hết vai trò, trách nhiệm mà pháp luật qui định, cũng như sự kì vọng của nhân dân đối với họ. Nguyên nhân một phần nằm ở sự hạn chế về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của TP và HT, trình độ chuyên môn và năng lực giữa TP và HT còn một khoảng cách khá xa dẫn đến việc thực hiện nguyên tắc trong xét xử còn mang tính tượng trưng, đạo đức nghề nghiệp chưa được coi trọng; chế độ đãi ngộ đối với Thẩm phán và Hội thẩm chưa được quan tâm đúng mức…
2.5. Những bất cập trong quy định của pháp luật
Về hệ thống pháp luật, một số quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của HT, cơ chế bầu cử HT và thực trạng hoạt động của HT còn nhiều vấn đề vướng mắc, bất cập khiến việc HT tham gia hoạt động xét xử của TA còn mang tính hình thức, vẫn chưa phát huy được hết vị trí, vai trò quan trọng mà Hiến pháp và pháp luật đã quy định. Qua công tác xét xử thực tiễn cho thấy, HT chưa phát huy được hết quyền năng của mình, có những HT chỉ nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách qua loa, đại khái hoặc có trường hợp không nghiên cứu hồ sơ nhưng vẫn tiến hành hoạt động xét xử tại TA, vì vậy, HT sẽ rơi vào tình trạng lệ thuộc, thiếu chủ động trong quá trình quyết định việc giải quyết vụ án, khiến cho công chúng nhìn nhận về sự tham gia của HT chỉ là hình thức, tham gia cho đủ thành phần.
Mô hình tổ chức hoạt động và cách thức quản lý của tòa án TP, HT cũng có thể bị áp lực khác tác động, khiến họ lúng túng khi tham gia xét xử như hiện tượng can thiệp của chính quyền địa phương, của Chánh án TA, của tổ chức Đảng vào hoạt động xét xử. Hiến pháp hiện hành không quy định mối quan hệ hành chính giữa TA các cấp, mối quan hệ giữa TA các cấp là mối quan hệ tố tụng, điều này có nghĩa là không có TA cấp trên và không có TA cấp dưới mà chỉ có TA cấp sơ thẩm, TA cấp phúc thẩm, các TA thực hiện chức năng Giám đốc thẩm và Tái thẩm và các TA thực hiện chức năng xét xử độc lập với nhau.
Tuy nhiên, vẫn tồn tại tình trạng TA cấp trên quản lý TA cấp dưới cả về tổ chức, tài chính và chỉ đạo chuyên môn nghiệp vụ. Tình trạng can thiệp từ phía lãnh đạo TA vào hoạt động xét xử, trong một số trường hợp đã can thiệp sâu vào công việc xét xử của TP và HT hoặc cũng có trường hợp vì lợi ích cá nhân mà Chánh án chỉ thị, định hướng cho HĐXX. Trên thực tế, tình trạng TP tham khảo ý kiến của lãnh đạo Toà án còn cao. Việc trao đổi ý kiến lãnh đạo về “đường lối giải quyết vụ án” vẫn chiếm một tỷ lệ lớn trong các TP tỉnh và huyện.
TA nhân dân tối cao đã có yêu cầu nghiêm cấm sự can thiệp vào hoạt động xét xử, nhưng trên thực tế không ít TA địa phương vẫn còn tồn tại cơ chế này. Tình trạng “báo cáo án”, “thỉnh thị án” đã phá vỡ nhiều nguyên tắc quản lý và nguyên tắc tư pháp trong hoạt động TA, như “nguyên tắc TP, Hội thẩm xét xử độc lập”, “nguyên tắc xét xử tập thể”, làm cho những nguyên tắc này trở nên hình thức và không được tôn trọng, làm giảm vai trò của HT, phá vỡ nguyên tắc tính đại diện của nhân dân trong xét xử.
TP, HT đôi khi còn chịu áp lực của công luận khi đăng tải nhiều bài viết về một vụ án chưa xét xử; chịu ảnh hưởng và tác động của nhiều yếu tố khi nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, giải quyết hồ sơ tài liệu dẫn đến có thể không độc lập trong quá trình xem xét giải quyết toàn bộ vụ án.
Không ít TP và HT còn lệ thuộc vào những thông tin, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Trong nhiều trường hợp, HĐXX không coi trọng tới những ý kiến trình bày tại phiên tòa, chưa thực sự coi trọng nguyên tắc tranh tụng mà vẫn nặng về thẩm vấn, xét hỏi, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các bên tham gia tố tụng. Do đó, phán quyết của HĐXX còn mang tính áp đặt, còn tình trạng xét xử oan sai, trái pháp luật; bản án, quyết định của TA cấp dưới bị TA cấp trên hủy, sửa nhiều.
Quy trình tuyển chọn TP còn nhiều bất cập, việc tuyển chọn TP không được pháp luật quy định phải công bố công khai, rộng rãi nên không tạo được tính cạnh tranh. Thực tế việc tuyển chọn TP cơ bản là quy trình khép kín trong nội bộ ngành TA, chưa có cơ chế khuyến khích những người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện đăng ký dự thi hoặc tuyển chọn làm TP, vì thế không thu hút được người tài, giỏi. Hiện tại, bên cạnh những TP được đào tạo bài bản, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ vững vàng, có bề dày kinh nghiệm và kỹ năng xét xử, vẫn còn không ít TP hạn chế về năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, không có bản lĩnh chính trị vững vàng, thiếu tự tin, sợ trách nhiệm, không tự quyết định được các tình huống khi xét xử. Đây cũng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng tới nguyên tắc xét xử độc lập của TP và HT.
Chế độ tiền lương của TP và chế độ, chính sách đối với HT chưa hợp lý. Mức lương của TP ở nước ta hiện nay là rất khiêm tốn, không đảm bảo được mức sống tối thiểu của bản thân và gia đình họ. Điều này sẽ làm cho TP không yên tâm công tác, dễ bị những tác động, cám dỗ hoặc tham nhũng khi tham gia hoạt động tố tụng. Đối với HT, ngoài chế độ về trang phục, HT không có chế độ lương hàng tháng chỉ có chế độ phụ cấp phiên tòa, phụ cấp nghiên cứu hồ sơ vụ án.Trong khi đó, pháp luật quy định khi tham gia xét xử, HT ngang quyền với TP, nhưng một số chế độ của TP như phụ cấp công vụ, phụ cấp trách nhiệm nghề, thì HT lại không được hưởng cũng là không hợp lý.
Pháp luật cũng chưa quy định các biện pháp bảo vệ TP, HT và gia đình họ trong những trường hợp cần thiết. Thực tế đã có nhiều trường hợp TP, HT bị các đối tượng đe dọa, trả thù, thậm chí những người thân của họ cũng bị đe dọa, trả thù, vì vậy, cần phải có những quy định về bảo vệ đối với tính mạng, tài sản của TP, HT và gia đình họ ngoài thời gian tham gia xét xử để họ yên tâm thực hiện nhiệm vụ xét xử của mình, đặc biệt là xét xử những vụ án lớn, vụ án có bị cáo là đối tượng nguy hiểm.
3. Một số giải pháp nhằm đảm bảo việc thực hiện nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật
Thứ nhất, thực hiện việc tổ chức TA theo thẩm quyền xét xử. Với mô hình TA như vậy, mối quan hệ giữa TA cấp trên và TA cấp dưới lúc này chỉ là quan hệ tố tụng, theo đó sẽ tăng cường tính độc lập của TP và HT cũng như hạn chế được sự can thiệp trái pháp luật của chính quyền địa phương vào hoạt động xét xử của TA.
Thứ hai, nâng cao tính độc lập cho TP thông qua việc đổi mới cơ chế tuyển chọn, bổ nhiệm TP; kéo dài nhiệm kì TP để tránh sức ép tâm lý cho các TP khi bổ nhiệm lại, làm cho các TP yên tâm công tác lâu dài.
Thứ ba, đổi mới chế định HT theo hướng qui định cụ thể tiêu chuẩn của HT, việc phân công, quản lý HT tham gia việc xét xử, việc tổ chức đoàn HT giống như một số tổ chức xã hội – nghề nghiệp, có kinh phí hoạt động mà không chịu sự quản lý của Chánh án TAND cùng cấp. Bên cạnh đó phải nâng chế độ đãi ngộ vật chất đối với HT khi tham gia phiên tòa, tạo động lực cho họ thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử của mình. Đồng thời, để HT thực sự độc lập với TP trong quá trình tố tụng cũng rất cần cần những giải pháp nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng xét xử cho các HT .
Thứ tư, tăng cường vai trò giám sát của các Đoàn đại biểu Quốc hội, của Hội đồng nhân dân đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Đồng thời, nâng cao chất lượng hoạt động của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền, cung cấp thông tin về hoạt động xét xử.
Thứ năm, hoàn thiện Hệ thống pháp luật, thể chế hóa các qui định của pháp luật về thủ tục tố tụng theo hướng chuyển từ thủ tục xét hỏi sang thủ tục tranh tụng để vừa đảm bảo được sự bình đẳng, vô tư, khách quan trong quá trình tố tụng, vừa đảm bảo cho các TP và HT được độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong xét xử.
Thứ sáu, TA nhân dân tối cao cần quan tâm nhiều hơn về công tác tổng kết thực tiễn xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật cho TAND các cấp. Tăng cường công tác tập huấn về chuyên môn nghiệp vụ, các văn bản pháp luật mới được ban hành cho TP các cấp. Xây dựng quy chế quản lý, giám sát đối với TP, HT trong việc thực thi nhiệm vụ của mình; có biện pháp chế tài hành chính cụ thể đối với những trường hợp áp dụng pháp luật một cách tùy tiện theo ý chí chủ quan của TP và HT. Kiện toàn nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị của đội ngũ TP, HT.
Thứ bảy, pháp luật cần phải xây dựng các chế độ chính sách, chế độ tiền lương hợp lý cho TP và các cán bộ tư pháp. Hiện nay, quy định về chế độ chính sách cũng như chế độ tiền lương cho TP là chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.
2. Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015.
3. Hiến pháp năm 2013.
4. Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, NXB Tư Pháp.
5. Luật tổ chức Tòa án Nhân dân năm 2014.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338