Language:
Vay tiền không trả sẽ bị xử lý ra sao?
30/12/2022
icon-zalo

Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường

 Luật sư Nguyễn Văn Đồng

 

Câu hỏi của bạn đọc: Vay nợ là quan hệ dân sự xảy ra thường xuyên, phổ biến trong cuộc sống thường ngày. Vậy, vay tiền không trả sẽ bị xử lý như thế nào, mong luật sư giải đáp?

 

Quan điểm của Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, theo quy định của pháp luật, lừa đảo chiếm đoạt tài sản đến mức bị xử lý hình sự là hành vi dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp: Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm; đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật Hình sự, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.

 

 

Pháp luật quy định vay tiền, vay tài sản là quan hệ dân sự. Trong Điều 463 Bộ luật Dân sự  năm 2015 quy định, hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên. Theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay. Khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

 

Đồng thời, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy lãi suất vay do các bên thỏa thuận. Trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác.

 

Bản chất vay mượn tiền là quan hệ dân sự tự nguyện. Pháp luật không cấm người nợ tiền ngân hàng vay tài sản để trả nợ cho ngân hàng sau đó sẽ tiếp tục vay tiền của ngân hàng để trả nợ cho khoản vay nhằm kéo dài thời gian trả nợ, thường gọi là đảo nợ hay đáo hạn ngân hàng.

 

Nếu vay tiền rồi sử dụng sai mục đích nhưng không chứng minh được mục đích chiếm đoạt thì vẫn chỉ là quan hệ dân sự. Nếu người nào không còn khả năng trả nợ nhưng vẫn đưa ra thông tin gian dối để vay tiền và nhận thức được rằng không thể trả nợ và không có ý định trả nợ thì mới là hành vi lừa đảo, chứng minh ý chí của bên vay trong trường hợp này để buộc tội không đơn giản.

 

Hành vi chỉ có thể cấu thành tội phạm nếu như người nợ tiền mất khả năng trả nợ, không có mục đích là sẽ trả nợ nhưng vẫn vay tiền, nhận tiền để sử dụng sai mục đích nhằm chiếm đoạt số tiền vay...; Quan hệ dân sự vay tài sản chỉ chuyển thành quan hệ hình sự nếu cơ quan điều tra có căn cứ cho thấy việc nhận tiền thông qua thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt chính là số tiền đã vay. Thủ đoạn gian dối và mục đích chiếm đoạt tài sản phải có trước thời điểm nhận tiền thì người vay tiền mới phạm tội này.

 

Trường hợp bị kết tội về tội danh này thì các bị can phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điều 174 Bộ luật Hình sự  năm 2015 là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân.

 

Ở góc nhìn khác, Luật sư Nguyễn Văn Đồng đưa ra quan điểm, vay nợ là quan hệ dân sự được điều chỉnh bởi Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể, tại Điều 466 Bộ luật Dân sự quy định: Bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn; nếu tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

 

 

 

- Trường hợp bên vay không trả nợ do không có khả năng chi trả và không có dấu hiệu bỏ trốn hay dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản thì đây sẽ là tranh chấp dân sự. Để đòi lại được tiền, bên cho vay có thể thực hiện thủ tục kiện đòi tài sản tại Toà án.

 

- Trường hợp khác, nếu bên vay có thể trả nợ nhưng không trả mà cố tình dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn nhằm chiếm đoạt tài sản thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

 

Xử lý hình sự khi cố tình không trả nợ, nếu vay tiền nhưng không trả có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, các hành vi phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản gồm:

 

- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả.

 

- Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.

 

Người thực hiện một trong các hành vi trên có thể bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm khi giá trị tài sản từ 04 triệu đến dưới 50 triệu đồng.

 

Giá trị tài sản dưới 04 triệu đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản… chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ. Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng các khung hình phạt tăng nặng khác là:

 

Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm khi: Phạm tội có tổ chức; Có tính chất chuyên nghiệp; Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 triệu đến dưới 200 triệu đồng; Dùng thủ đoạn xảo quyệt; Tái phạm nguy hiểm…

 

Phạt tù từ 05 - 12 năm khi chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 triệu đến dưới 500 triệu đồng.

 

Phạt tù từ 12 - 20 năm khi chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu đồng trở lên.

 

Bên cạnh đó, hình phạt bổ sung của tội này là phạt tiền từ 10 - 100 triệu đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.