Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Luật sư Hà Thị Khuyên
Người bào chữa cho bị cáo, cho rằng thân chủ của mình không bỏ trốn; sau khi biết mình bị đưa ra xét xử thì bị cáo đã liên hệ với gia đình mời người bào chữa, đồng thời gửi bản tường trình tới Tòa án Nhân dân TP.Hà Nội, Viện Kiểm sát Nhân dân TP.Hà Nội xin được xét xử vắng mặt vì lý do bất khả kháng. (Link thông tin https://m.thanhnien.vn/luat-su-de-nghi-go-lenh-truy-na-cho-mot-bi-cao-dang-o-my-post1535892.amp?)
Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên cho biết, việc đưa ra xét xử bị cáo đang trốn truy nã được thực hiện theo khoản 2, Điều 290 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, tòa án chỉ có thể xét xử vắng mặt bị cáo trong các trường hợp bị cáo trốn và việc truy nã không có kết quả; bị cáo đang ở nước ngoài và không thể triệu tập đến phiên tòa; bị cáo đề nghị xét xử vắng mặt và được Hội đồng xét xử chấp nhận. Nếu sự vắng mặt của bị cáo không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan và sự vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử.
Như vậy, theo những quy định trên, bị cáo có nghĩa vụ phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án trong suốt thời gian xét xử vụ án. Tuy nhiên, bị cáo có thể vắng mặt nếu vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan, trường hợp này phiên tòa xét xử sẽ bị hoãn. Vì vậy, việc bị cáo vắng mặt có phải do trở ngại khách quan hay không tòa án cần xem xét kỹ.
Nếu bị cáo vắng mặt mà không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì sẽ bị áp giải theo quy định. Trường hợp nếu bị cáo trốn thì Hội đồng xét xử sẽ tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo.
Bên cạnh đó, theo điểm a khoản 3 Điều 61 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015, quy định về nghĩa vụ của bị cáo phải Có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án. Trường hợp vắng mặt không vì lý do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan thì có thể bị áp giải; nếu bỏ trốn thì bị truy nã. Bị cáo đã vắng mặt từ trước không chấp hành các quyết định của cơ quan tố tụng nên trường hợp đề nghị được gỡ quyết định truy nã khó được chấp nhận nếu bị cáo vẫn tiếp tục vắng mặt.
Còn theo Điều 2, Điều 4 Thông tư liên tịch 13/2012/TTLT-BCA-BTP-VKSNDTC-TANDTC quy định về đối tượng bị truy nã và ra quyết định truy nã gồm: Bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; người bị kết án trục xuất, người chấp hành án phạt trục xuất bỏ trốn; người bị kết án phạt tù bỏ trốn; người bị kết án tử hình bỏ trốn; người đang chấp hành án phạt tù, người được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù, người được hoãn chấp hành án bỏ trốn.
Tại khoản 3, Điều 231 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, sau khi bắt được bị can theo quyết định truy nã thì Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã phải ra quyết định đình nã. Có nghĩa việc định nã, gỡ bỏ quyết định truy nã chỉ được thực hiện khi bắt được bị can, bị cáo hoặc bị can, bị cáo ra đầu thú.
Đối chiếu các quy định nêu trên, bị cáo trước đó đã bị ra quyết định truy nã và trước khi xét xử bị cáo không ra trình diện, đầu thú để hưởng khoan hồng từ tình tiết “đầu thú” quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, tức không chấp hành giấy triệu tập của tòa án, không thực hiện nghĩa vụ của bị can, bị cáo thì không có căn cứ để gỡ bỏ quyết định truy nã.