Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Người lập di chúc có đủ điều kiện về năng lực chủ thể, về ý chí, về nội dung, về hình thức di chúc được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Đối với người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi được lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc. Hiện nay tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh mà người lập di chúc lựa chọn một trong các loại theo quy định của điều luật trên đây để thể hiện ý chí định đoạt tài sản của mình trong đó; hình thức của di chúc là phương thức biểu đạt ý chí của người lập di chúc, là căn cứ pháp lý làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là chứng cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc.
Tại Điều 638 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực. Cụ thể:
Thứ nhất, Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực. Là các trường hợp quân nhân đang làm nhiệm vụ chiến đấu hay đóng quân ở hải đảo xa… không có điều kiện đi công chứng hoặc chứng thực thì di chúc do họ lập ra chỉ cần xin xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên.
Thứ hai, Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó. Là trường hợp khẩn cấp khi tính mạng người lập di chúc có nguy cơ bị đe dọa thì di chúc được coi là đã công chứng hoặc chứng thực hợp lệ khi có xác nhận của người chỉ huy tàu biển, máy bay. Theo quy định của Bộ luật Hàng hải thì thuyền trưởng là người có quyền chỉ huy cao nhất ở trên tàu biển, chỉ huy tàu theo chế độ thủ trưởng. Còn theo quy định của Luật Hàng không dân dụng Việt Nam, người chỉ huy tàu bay là thành viên tổ lái được người khai thác tàu bay chỉ định cho một chuyến bay; đối với hoạt động hàng không chung không vì mục đích thương mại thì do chủ sở hữu tàu bay chỉ định.
Thứ ba, Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó. Đây là trường hợp người đang điều trị, điều dưỡng mà có nguy cơ bị thiệt mạng, không thể đến văn phòng công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn để công chứng, chứng thực di chúc được.
Thứ tư, Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị. Là trường hợp khi đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo mà tính mạng người lập di chúc lâm vào tình trạng nguy kịch, đòi hỏi phải lập di chúc ngay thời điểm đó thì di chúc được coi là có công chứng, chứng thực hợp pháp khi có xác nhận của người phụ trách đơn vị đó.
Thứ năm, Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó. Khi công dân đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài, không thể về Việt Nam để công chứng, chứng thực thì người lập di chúc có thể đến cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam tại nước đó để thực hiện việc công chứng, chứng thực này.
Thứ sáu, Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó. Người đang bị tổ chức, cơ quan có thẩm quyền quản lý thì di chúc có xác nhận của người phụ trách tổ chức, cơ quan đó được coi là di chúc đã có công chứng, chứng thực.
Như vậy, di chúc bằng văn bản được một số người, cơ quan xác nhận trong một số trường hợp cũng có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực tại văn phòng công chứng hoặc ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Việc quy định như vậy nhằm đảm bảo cho cá nhân quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của họ ngay cả khi họ rơi vào hoàn cảnh đặc biệt. Tuy nhiên, chỉ trong hoàn cảnh đó thì mới được coi là có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực.
Vì thế khi người lập di chúc đã trở lại điều kiện bình thường, có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứng nhận, chứng thực di chúc nhưng nếu họ không yêu cầu chứng thực, chứng nhận lại di chúc mà họ đã lập thì những bản di chúc đó thì sẽ không được thừa nhận có giá trị như di chúc được công chứng, chứng thực; đồng thời cũng không được coi là di chúc đó đã bị hủy bỏ.
Điều 638. Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng hoặc chứng thực
1. Di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng hoặc chứng thực.
2. Di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó.
3. Di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dưỡng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó.
4. Di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi, hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị.
5. Di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước đó.
6. Di chúc của người đang bị tạm giam, tạm giữ, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh có xác nhận của người phụ trách cơ sở đó.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338