Tại khoản 1 Điều 7 Bộ luật dân sự 2015 quy định việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tĩnh đoàn kết, tương thăn, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mọi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sổng trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt khi áp dụng pháp luật dân sự để giải quyết các tranh chấp theo khoản 2 Điều 7 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Khi xác lập, thực hiện các quyền dân sự các chủ thể phải tôn trọng truyền thông tốt đẹp, phong tục tập quán của nhân dân. Phong tục, tập quán, đạo đức và truyền thống tốt đẹp của nhân dân là cơ sở xã hội của pháp luật dân sự. Một nền pháp luật chỉ tồn tại và bền vững khi phù hợp với đạo đửc và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Việc xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự cũng phải dựa trên nền tảng của đạo đức và truyền thống đó trên tinh thần tương thân, tương ái, “mình vì mọi người, mọi người vì mình” nhằm tạo điều kiện cho những người, những cộng đồng chưa có những điều kiện thực tế có thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ dân sự của họ.
Pháp luật dân sự với vai trò là công cụ điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm thực hiện những nhiệm vụ chính trị mà Hiến pháp năm 2013 khi thể chế hóa đường lối của Đảng đã ghi nhận. Quy định tại Điều 7 Bộ luật dân sự năm 2015 đã khẳng định và ghi nhận Chính sách của Nhà nước đối với quan hệ dân sự.
Trong khi xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự, các chủ thể có quyền tự do thỏa thuận theo ý chí của bản thân nhưng yêu cầu việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự phải đảm bảo giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tĩnh đoàn kết, tương thăn, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mọi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc. Vì đây là những những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Có thể xem đây là định hướng quan trọng của Nhà nước và là yêu cầu đối với các chủ thể khi xác lập, thực hiện quan hệ dân sự. Pháp luật dân sự cho phép các bên tự do thỏa thuận, cam kết khi xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận thì quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ theo quy định của luật. Đây là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh, xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp các bên không có thỏa thuận.
Thông qua những quy định về quyền và nghĩa vụ được ghi nhận trong pháp luật dân sự mà các chủ thể biết được những quyền của mình; giới hạn quyền đó đến đâu để chủ thể có thể tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ trong những trường hợp cần thiết. Những quy định này còn giúp các chủ thể nhận thức được giới hạn các quyền dân sự của mình, để khi thực hiện không xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Không phải bất cứ quyền, lợi ích nào khi được chủ thể của quan hệ dân sự xác lập theo ý chí của mình cũng đều được luật dân sự công nhận và bảo vệ. Các chủ thể chỉ được pháp luật bảo vệ khi có căn cứ pháp lý và có cơ sở khoa học.
Điều 7. Chính sách của Nhà nước đối với quan hệ dân sự
1. Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tình đoàn kết, tương thân, tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Trong quan hệ dân sự, việc hòa giải giữa các bên phù hợp với quy định của pháp luật được khuyến khích.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338