Language:

bộ luật tố tụng hình sự

Mời luật sư tham gia vụ án hình sự

Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Luật Thi hành Tạm giữ - Tạm giam năm 2015 và các văn bản hướng dẫn khác đã mở rộng quyền nhờ luật sư bào chữa của người bị buộc tội là người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Thời điểm luật sư tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can; trường hợp bị bắt, bị tạm giữ thì luật sư bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra hoặc khi có quyết định tạm giữ quy định tại Điều 74 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Kháng cáo bản án sơ thẩm Hình sự

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên cho biết, kháng cáo là quyền đề nghị Toà án cấp trên trực tiếp xem xét lại bản án hay quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của những người tham gia tố tụng theo quy định pháp luật tố tụng.

Trả hồ sơ điều tra bổ sung trong tố tụng hình sự

Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng phân tích, Viện kiểm sát, Tòa án sẽ ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung để củng cố, làm rõ những nội dung còn mâu thuẫn, chưa rõ ràng, phục vụ cho hoạt động truy tố, xét xử diễn ra hiệu quả.

Việc tạm giữ hình sự một người được thực hiện ra sao?

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên phân tích, tạm giữ là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan và người có thẩm quyền áp dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã quy định tại Điều 117 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Đang bị tạm giữ, tạm giam có quyền tố cáo người khác không?

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính (Đoàn Luật sư Hà Nội) phân tích, căn cứ theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 9 Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam 2015 về quyền của người bị tạm giữ, tạm giam như sau: “Được khiếu nại, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật”.

Thời hạn điều tra vụ án hình sự được quy định thế nào?

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, theo quy định tại Điều 172 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, thì thời hạn điều tra vụ án hình sự không quá 02 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 03 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc điều tra.

Quyền nhờ người bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn  phòng Luật sư Nhân Chính phân tích về quyền nhờ người bào chữa của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Xuất phát từ các quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo quy định tại các Điều 58, Điều 59, Điều 60, Điều 61 Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định quyền “tự bào chữa, nhờ người bào chữa”, do đó việc tự bào chữa hoặc nhờ người bào chữa là quyền hiển nhiên của người bị buộc tội. Tại Điều 71 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 quy định trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng, theo đó cơ quan tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm thông báo, giải thích và bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng theo quy định. Trường hợp người bị buộc tội, người bị hại thuộc diện được trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm giải thích cho họ quyền được trợ giúp pháp lý; nếu họ đề nghị được trợ giúp pháp lý thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thông báo cho Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước. Việc thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng phải ghi vào biên bản. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn rất nhiều cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng không phổ biến quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng (bao gồm người bị buộc tội) dẫn tới vi phạm thủ tục tố tụng, xâm phạm quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng (bao gồm người bị buộc tội).