Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Luạt sư Hà Thị Khuyên
Theo quy định tại Điều 184 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thời hiệu khởi kiện được thực hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự. Tại khoản 3 Điều 150 Bộ luật Dân sự 2015 quy định thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà chủ thể được quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Trường hợp thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện.
Về tranh chấp đất đai: Căn cứ khoản 47 Điều 3 Luật Đất đai năm 2024, tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Có nhiều dạng tranh chấp đất đai khác nhau nhưng điển hình là tranh chấp về quyền sử dụng đất và tranh chấp về ranh giới của các thửa đất liền kề.
Tranh chấp về quyền sử dụng đất là một trong những trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện quyền sử dụng đất; các bên yêu cầu sẽ không bị giới hạn về thời hiệu khởi kiện tranh chấp đất đai được quy định tại khoản 3 Điều 155 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Đối với các tranh chấp liên quan đến đất đai, thời hiệu khởi kiện được hướng dẫn tại Bộ luật Dân sự 2015. Theo đó, đối với tranh chấp dân sự mà văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thời hiệu khởi kiện thì áp dụng thời hiệu khởi kiện được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật đó. Cụ thể:
- Đối với tranh chấp dân sự phát sinh từ giao dịch dân sự như: hợp đồng chuyển quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê quyền sử dụng đất, hợp đồng thuê lại quyền sử dụng đất: Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, được quy định ăn cứ Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015.
- Đối với tranh chấp đất đai là di sản thừa kế thì thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Trong đó: (1) Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế; (2) Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế, được quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự 2015.
Theo đó tranh chấp về quyền sử dụng đất là một trong những trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Do đó, các bên yêu cầu giải quyết khi có tranh chấp sẽ không bị giới hạn về thời hiệu khởi kiện tranh chấp đất đai. Tuy nhiên trong các trường hợp tranh chấp dân sự liên quan tới đất đai mà văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thời hiệu khởi kiện thì áp dụng thời hiệu khởi kiện được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật đó.
Trường hợp tranh chấp đất đai nhưng không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất:
Tại khoản 2 Điều 236 Luật Đất đai năm 2024 quy định về tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở, Giấy chứng nhận quyền sở hữu công trình xây dựng, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất, Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất hoặc không có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 137 của Luật Đất đai năm 2024 thì các bên tranh chấp được lựa chọn một trong hai hình thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:
- Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 236 Luật Đất đai năm 2024;
- Khởi kiện tại Tòa án có thẩm quyền theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự.
Liên hệ tư vấn và mời luật sư: 0936683699 - 0983951338









