Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Thông tin từ báo chí, dù chưa ly hôn, chị N.T.H. (Hà Tĩnh) vẫn được xã xác nhận chưa kết hôn để cưới chồng mới. Việc làm này khiến người chồng mất vợ, 2 con mất mẹ. Theo đơn tố cáo của anh N.V.H. (SN 1985, trú tại xã Hương Xuân, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh), ngày 9/2/2006, anh làm thủ tục đăng ký kết hôn cùng chị N.T.H. (SN 1984) tại quê vợ xã Hương Thủy của huyện này, theo giấy đăng ký kết hôn số 02, quyển 01/2006, do ông Nguyễn Ngọc Chí, Phó chủ tịch UBND xã ký. Đến nay, vợ chồng anh Hiếu đã sống với nhau được 17 năm và có 2 người con trai chung (17 tuổi và 10 tuổi). (Link thông tin https://vietnamnet.vn/bong-nhien-mat-vo-vi-chinh-quyen-but-phe-chua-ket-hon-2141884.html)
Phóng viên hỏi luật sư: Trách nhiệm pháp lý của những người liên quan trong vụ việc này ra sao?
Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Nguyễn Văn Đồng - Văn phòng Luật sư Nhân Chính cho biết, đây là sự việc hi hữu hiếm gặp, là việc làm tắc trách của cán bộ tư pháp hộ tịch khi kiểm tra hồ sơ và trình lãnh đạo UBND xã ký, vị cán bộ công chức tư pháp hộ tịch đã không làm đúng trình tự và thủ tục nên dẫn tới hậu quả nghiêm trọng, đối với cơ quan họ đó là lỗi hành chính nhưng hậu quả đưa đến rất nặng nề đó là vô tình trường hợp kết hôn đúng pháp luật gia đình tan vỡ, con cái không còn chỗ nương tựa, xâm phạm nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ngoài ra nguyên nhân một phần còn do người vợ không chung thủy và biết mình chưa ly hôn nhưng có hành vi kết hôn trái pháp luật.
Tôi cho rằng cần xem xét trách nhiệm pháp lý phía UBND đối với công chức và lãnh đạo để có hình thức kỷ luật phù hợp theo quy định tại Nghị định 112/2020/NĐ-CP.
Nếu chính quyền đã nhận thức được lỗi của mình thì cần phối hợp với tòa án tiến hành hủy hôn nhân trái pháp luật nêu trên. Đồng thời xem xét đánh giá nhận thức của người phụ nữ nếu đủ căn cứ cho thấy người vợ biết việc mình kết hôn là trái pháp luật thì có thể xử lý người vợ. Bởi hành vi này xâm phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng được pháp luật quy định.
Trường hợp người vợ trên nếu hành vi chưa đến mức phải xử lý hình sự thì có thể xem xét xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại điểm b và điểm c khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng như sau:
"Điều 59. Hành vi vi phạm quy định về kết hôn, ly hôn và vi phạm chế độ hôn nhân một vợ, một chồng
1. Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
đ) Cản trở kết hôn, yêu sách của cải trong kết hôn hoặc cản trở ly hôn"
Khi đang có vợ có chồng mà chung sống như vợ chồng với một người khác thì có thể bị xử phạt từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng.
Nếu hành vi của người vợ trên để lại hậu quả nghiêm trọng đến mức phải xử lý hình sự, thì người vợ này sẽ bị theo Điều 182 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng như sau:
"Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.”
Như vậy, tùy vào mức độ vi phạm, hành vi chung sống như vợ chồng trái pháp luật có thể bị xử lý vi phạm hành chính hoặc xử lý hình sự theo quy định trên. Trường hợp cán bộ UBND cấp xã cần nghiêm khắc xử lý kỷ luật cán bộ thiếu trách nhiệm.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338