Tại khoản 1 Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 như sau: “Dữ liệu điện tử là ký hiệu, chữ viết, chữ số, hình ảnh, âm thanh hoặc dạng tương tự được tạo ra, lưu trữ, truyền đi hoặc nhận được bởi phương tiện điện tử”, ngoài ra tại điểm c, khoản 1, Điều 87 “Dữ liệu điện tử” được xem là một nguồn chứng cứ.
Trợ giúp pháp lý
Hiện nay pháp luật tố tụng hình sự đã có nhiều chuyển biến tích cực, theo hướng ghi nhận và tạo điều kiện để người bị buộc tội thực hiện quyền nhờ người bào chữa. Khi người bào chữa có cơ hội tham gia tố tụng sớm, sẽ giúp thúc đẩy tiến trình tố tụng diễn ra nhanh hơn, khách quan hơn và hạn chế được những sai sót trong quá trình cơ quan tố tụng giải quyết vụ án.
Trong dự thảo sửa đổi Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh Bất động sản, Bộ Xây dựng đang đề xuất thời hạn sở hữu nhà chung cư, theo một trong hai hướng: Thời hạn sở hữu nhà xác định theo thời hạn sử dụng của công trình; hoặc giữ nguyên thời hạn sử dụng như quy định hiện nay - tức không quy định niên hạn.
Dưới góc độ pháp lý, Luật sư Hà Thị Khuyên cho biết, hiện nay một số garage ô tổ và cửa hàng cho thuê, mượn linh kiện xe để các chủ phương tiện lắp đặt, sau đó mang xe đi kiểm định do trước đó đã “độ linh kiện” đây là hành vi vi phạm pháp luật, hành vi này tiềm ẩn nguy cơ lớn gây mất an toàn khi phương tiện lưu thông, gây ảnh hưởng xấu và xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính đối với lĩnh vực đăng ký đăng kiểm phương tiện giao thông. Vì vậy, tùy tính chất và mức độ hành vi vi phạm, thì chủ phương tiện sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định pháp luật.
Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự năm 2015. Quy định về “phòng vệ chính đáng” được mô tả tại Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015, còn quy định về “gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội” được mô tả tại Điều 24 Bộ luật Hình sự năm 2015. Đây là 02 điều luật giải thích rõ thế nào là phòng vệ chính đang và thế nào là gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội. Còn trường hợp giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội thì phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 126 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Luật sư Nguyễn Văn Đồng phân tích, Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ được quy định là hành vi làm chết người trong khi thi hành công vụ, do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ được quy định là hành vi làm chết người trong khi thi hành công vụ, do dùng vũ lực ngoài những trường hợp pháp luật cho phép. Dưới đây, chúng tôi phân tích cấu thành của Tội Làm chết người trong khi thi hành công vụ quy định tại Điều 127 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, xoá án tích là việc sau khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt tù và trải qua thời gian thử thách nhất định thì được xóa án tích, khi được xóa án tích thì sẽ được xem là chưa từng bị kết án
Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng phân tích, theo quy định tại khoản 1, Điều 206 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 về các trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định khi cần xác định tình trạng tâm thần của người bị buộc tội khi có sự nghi ngờ về năng lực trách nhiệm hình sự của họ
Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng phân tích, tội mua bán người trong đó người thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm đến các quyền cơ bản của nạn nhân như quyền tự do, quyền con người… coi con người như một món hàng để thực hiện việc trao đổi, mua bán với mục đích là kiếm lợi nhuận.
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên phân tích, hành vi phạm tội của tội mua bán người dưới 16 tuổi chỉ khác hành vi phạm tội của tội mua bán người về dấu hiệu độ tuổi của nạn nhân, nận nhân của tội phạm này được quy định là người dưới 16 tuổi. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích cấu thành của Tội mua bán người dưới 16 tuổi quy định tại Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng phân tích, tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người được xếp vào chương tội xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Mà trực tiếp đối tượng tác động ở đây là mô và bộ phận cơ thể của con người.
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, tội phạm này quy định người nào in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước ở dạng phôi từ 50 số đến dưới 100 số hoặc hóa đơn, chứng từ đã ghi nội dung từ 10 số đến dưới 30 số hoặc thu lợi bất chính từ 30.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, chủ thể của Tội vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng có thể là người từ đủ 16 tuổi và có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đây là tội phạm đòi hỏi dấu hiệu chủ thể đặc biệt, đó là người có chức vụ, quyền hạn có thẩm quyền nhất định trong hoạt động nghề nghiệp kế toán.
Luật sư Đặng Văn Cường phân tích, tội phạm là người chưa thành niên (hay còn gọi là người dưới 18 tuổi phạm tội) là một trong những nhóm tội phạm được các quốc gia đặc biệt quan tâm. Ở Việt Nam tội phạm là người dưới 18 tuổi được pháp luật quy định thành một nhóm đối tượng riêng, có chính sách đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bởi tính chất đặc thù của nhóm tội phạm này. Chính sách của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh với tội phạm là người dưới 18 tuổi là khoan hồng, nhân đạo, chú trọng các giải pháp phòng ngừa, tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội hối lỗi, sửa sai, làm lại cuộc đời. Với đặc điểm về tâm sinh lý, về nhận thức, về kĩ năng sống, về phát triển và hình thành nhân cách của người dưới 18 tuổi thì nhóm người này dễ mắc sai lầm, trong những sai lầm đó thì có một phần trách nhiệm của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội.
Vướng mắc: Khi đã hết thời hiệu khiếu nại thì người khiếu nại mới có đơn khiếu nại quyết định hành chính đến cơ quan, người có thẩm quyền. Việc khiếu nại quá thời hiệu là không có lý do chính đáng. Do việc khiếu nại gay gắt, nhiều lần nên cơ quan, người có thẩm quyền đã ban hành văn bản (Quyết định, Công văn, Thông báo,…) có nội dung cho rằng quyết định hành chính đã được ban hành theo đúng quy định của pháp luật. Người khiếu nại không đồng ý nên đã có đơn khởi kiện đối với văn bản này. Vậy có xác định văn bản hành chính trên là quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính không? Nếu xác định là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính thì khi giải quyết vụ án có phải xem xét tính hợp pháp của quyết định hành chính ban đầu hay không?
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính giới thiệu Luật Trợ giúp pháp lý năm 2017 được Quốc hội thông qua ngày 20/6/2017. Luật này quy định về người được trợ giúp pháp lý; tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý; người thực hiện trợ giúp pháp lý; hoạt động trợ giúp pháp lý; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động trợ giúp pháp lý. Trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.
Tòa án nhân dân khu vực 17 - TP Hồ Chí Minh. Địa chỉ: Đường ĐT 747, phường Tân Uyên, TP. Hồ Chí Minh. Văn phòng Luật sư Nhân Chính (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) chuyên gia Tư vấn pháp luật và Tranh tụng trong các vụ án: Hình sự, hành chính, dân sự, đất đai và nhà ở, thừa kế, ly hôn, lao động, kinh doanh thương mại, sở hữu trí tuệ; tố tụng trọng tài thương mại; tham gia đàm phán, hòa giải. Địa chỉ: Số 3E ngõ 134 phố Quan Nhân, phường Thanh Xuân, Hà Nội. Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với các vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan. Khoản 1 Điều 203 BLTTDS năm 2015 quy định các trường hợp gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử là “vụ án có tính chất phức tạp hoặc do sự kiện bất khả kháng, trở ngại khách quan”. Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về sự kiện bất khả kháng và trở ngại khách quan như sau: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép. Trở ngại khách quan là những trở ngại do hoàn cảnh khách quan tác động làm cho người có quyền, nghĩa vụ dân sự không thể biết về việc quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm hoặc không thể thực hiện được quyền, nghĩa vụ dân sự của mình”.
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích Viện kiểm sát nhân dân có được kháng nghị quá hạn không? Theo quy định tại khoản 3 Điều 280 BLTTDS và Điều 16 Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 thì trường hợp Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm quá hạn, nếu Toà án yêu cầu thì Viện kiểm sát phải có văn bản giải thích lý do kháng nghị quá hạn. Việc xác định kháng nghị có quá hạn hay không căn cứ vào ngày, tháng, năm ghi trên quyết định kháng nghị. BLTTDS không quy định thủ tục xem xét kháng nghị quá hạn. Tuy nhiên, với trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, đã kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự ngay từ khi Toà án thụ lý, Viện kiểm sát phải thực hiện đúng quy định của BLTTDS về thời hạn kháng nghị phúc thẩm.
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính cho biết ngày 16/5/2024 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP, Nghị quyết này đã hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình. Cụ thể: Ngày 16/5/2024 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết 01/2024/NQ-HĐTP, Nghị quyết này đã hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình. Cụ thể: Quyền yêu cầu giải quyết ly hôn quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình“Đang có thai” quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình là khoảng thời gian vợ mang trong mình bào thai và được cơ sở y tế có thẩm quyền xác định cho đến thời điểm sinh con hoặc thời điểm đình chỉ thai nghén.



















