Về nguyên tắc thông thường khi chủ sở hữu đang trực tiếp quản lý, sử dụng cây cối mà cây cối gây thiệt hại thì chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, chủ sở hữu đã chuyển giao cho người khác quản lý cây cối thì chủ sở hữu vẫn phải bồi thường cho người bị thiệt hại, nếu giữa chủ sở hữu và người được giao quyền quản lý cây cối có thỏa thuận. Pháp luật Việt Nam không đưa ra một nguyên tắc cụ thể nào cho việc xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu cây cối. Tuy nhiên, nghiên cứu các quy định pháp luật có liên quan, có thể thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu cây cối dựa trên một số nguyên tắc như: (1) Nguyên tắc thực hiện quyền sở hữu. Theo nguyên tắc này, chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi đối tài sản của mình, nhưng khi tài sản gây thiệt hại thì phải bồi thường; (2) Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự. Theo nguyên tắc này, nếu chủ sở hữu cây cối không thực hiện nghĩa vụ phát rễ, tỉa cành, chặt hạ cây có nguy cơ đổ, gẫy... theo quy định tại khoản 2 Điều 175 và khoản 1 Điều 177 Bộ luật Dân sự năm 2015 mà cây cối gây thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường; (3) Nguyên tắc thỏa thuận, tức là giữa chủ sở hữu cây cối và người được giao quản lý cây cối có thể thỏa thuận về việc chủ sở hữu phải bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra kể cả trong trường hợp cây cối đang do người đó quản lý.
Tại Điều 604 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra. Theo đó, chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý phải bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra.
Khi cây cối gây thiệt hại thì những người có quyền và nghĩa vụ liên quan phải chịu trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại; trách nhiệm bồi thường của chủ thể được xác định dựa trên hành vi trái pháp luật của chủ thể, mà cụ thể là tồn tại dưới dạng không hành động. Thường thì các chủ thể có trách nhiệm trong việc quản lý, sử dụng cây cối phải có nghĩa vụ trong việc đảm bảo sự an toàn cho những người xung quanh bằng cách thực hiện các công việc phát cành, nếu cây có nguy cơ đổ, gãy thì phải chặt, đốn cây… Song chủ thể đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng khiến cho thiệt hại xảy ra, nên họ buộc phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Củ thể sau đây phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra gồm:
Chủ sở hữu là người trực tiếp sử dụng, quản lý, sử dụng cây cối, họ được hưởng hoa lợi, lợi tức mà cây cối đem lại; khi có thiệt hại xảy ra thì họ phải chịu trách nhiệm; song trong một số trường hợp, mặc dù chủ sở hữu không trực tiếp quản lý, sử dụng cây cối nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, nếu giữa chủ sở hữu và người quản lý tài sản có thỏa thuận về việc chủ sở hữu chịu trách nhiệm bồi thường, như vậy có thể thấy trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu đối với thiệt hại do cây cối gây ra xuất phát từ ba nguyên tắc: (1) Chủ sở hữu là người trực tiếp sử dụng, quản lý tài sản, với tư cách là chủ sở hữu có đầy đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt chủ thể được thực hiện mọi hành vi đối với tài sản của mình, họ được hưởng lợi ích mà cây cối đem lại, nên khi cây cối gây thiệt hại cho người khác thì họ phải chịu trách nhiệm; (2) Chủ sở hữu đã không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các biện pháp đảm bảo an toàn gây nên thiệt hại; chủ thể có tài sản là cây cối phải thực hiện các công việc đảm bảo an toàn như cắt, tỉa cành, chặt cây khi có nguy cơ bị đổ… Khi những công việc này không được thực hiện hoặc thực hiện không đúng mà gây thiệt hại cho người khác, thì chủ sở hữu đương nhiên phải chịu trách nhiệm; (3) Chủ sở hữu có thỏa thuận với người quản lý, sử dụng cây cối về việc chính chủ sở hữu sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra.
Người chiếm hữu, người quản lý cây cối là chủ thể có quyền và nghĩa vụ liên quan đến cây cối, do đó, họ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại do cây cối gây ra trong thời hạn chiếm hữu, quản lý, cụ thể: (1) Người chiếm hữu là người vừa thực hiện việc quản lý, chăm sóc cây cối cho chủ sở hữu vừa nắm giữ cây cối đó trên thực tế. Họ là người được chủ sở hữu trao quyền hoặc không. Tức họ có thể là người chiếm hữu hợp pháp hoặc không hợp pháp. Tuy nhiên, điều đó không làm ảnh hưởng đến trách nhiệm của họ trong việc bồi thường thiệt hại; (2) Người quản lý là người được chủ sở hữu chuyển giao quyền quản lý cây cối trong một khoảng thời gian xác định hoặc không. Trong thời gian quản lý, người quản lý có nghĩa vụ chăm sóc, bảo vệ, thực hiện các biện pháp đảm bảo an toàn cho cây cối và cho những người xung quanh. Do đó, trong thời gian đó nếu cây cối gây thiệt hại cho chủ thể khác thì họ có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại.
Trên thực tế đôi khi xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của chủ sở hữu của cây cối trong nhiều trường hợp sẽ khó khăn. Nếu trường hợp cây cối do chủ sở hữu tự trồng trong khuôn viên đất của mình thì việc xác định chủ sở hữu là sẽ dễ dàng, và chỉ cần căn cứ vào các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và các số liệu địa chính là có thể xác định được. Mặt khác, đối với các loại cây mọc tự nhiên ở ven đường, ở các cánh đồng mà gây thiệt hại thì việc xác định chủ sở hữu sẽ vô cùng khó khăn, và hầu như trong những trường hợp này, nếu cây cối gây thiệt hại thì người bị thiệt hại sẽ gánh chịu rủi ro.
Điều 604. Bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra
Chủ sở hữu, người chiếm hữu, người được giao quản lý phải bồi thường thiệt hại do cây cối gây ra.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338