Giám hộ có ý nghĩa quan trọng, mang tính nhân đạo sâu sắc nhằm hỗ trợ, giúp đỡ, bảo vệ cho những người yếu thế về mặt năng lực hành vi dân sự, cụ thể: người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Pháp luật dân sự hiện hành ban hành các quy định về Giám hộ nhằm tạo điều kiện để một người hay một pháp nhân khác được đứng ra để thực hiện quyền chăm sóc và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ, trong đó quy định cụ thể về nghĩa vụ và quyền trong vấn đề giám hộ.
Cử, chỉ định người giám hộ là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền như Ủy ban nhân dân xã nơi cư trú của người được giám hộ, Tòa án cử, chỉ định người giám hộ khi không có người giám hộ đương nhiên hoặc có tranh chấp giữa những người giám hộ.
Các quy định tại Điều 54 Bộ luật Dân sự năm 2015 xác định người giám hộ khi không có người giám hộ đương nhiên theo Điều 52 và Điều 53 Bộ luật dân sự. Theo đó, người giám hộ được xác định theo một trong hai phương thức:
- Theo quyết định cử người giám hộ của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ;
- Theo quyết định chỉ định người giám hộ của Tòa án khi có tranh chấp giữa những người giám hộ đương nhiên.
Đối với người được giám hộ có độ tuổi từ đủ sáu tuổi trở lên thì việc cử, chỉ định người giám hộ phải xem xét nguyện vọng của người được giám hộ. Quy định này thể hiện sự tương thích với khả năng nhận thức và làm chủ hành vi bắt đầu có một phần của cá nhân đủ sáu tuổi trở lên.
Ngoài ra, giám hộ cũng tương tự như việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của cha mẹ, do đó, yếu tố tình cảm rất quan trọng giữa người được giám hộ và người giám hộ. Đứa trẻ chưa thành niên đủ sáu tuổi trở lên có thể yêu quý hoặc không có thiện cảm với người giám hộ sẽ ảnh hưởng đến quan hệ giám hộ sau này.
Thủ tục cử người giám hộ yêu cầu:
- Lập thành văn bản ghi rõ: lý do cử người giám hộ; quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ; tình trạng tài sản của người được giám hộ;
- Phải được sự đồng ý của người được cử.
Việc chỉ định người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi được Tòa án thực hiện (khi người này không lựa chọn người giám hộ của mình khi vẫn còn minh mẫn). Người giám hộ được chỉ định là:
- Một trong những người thân thích có thể trở thành người giám hộ đương nhiên của người mất năng lực hành vi dân sự quy định tại Điều 53 Bộ luật Dân sự;
- Cá nhân hoặc pháp nhân khác
Điều 54 Bộ luật Dân sự năm 2015 kế thừa và phát triển quy định tại Điều 63 và Điều 64 Bộ luật Dân sự năm 2005. So với các quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005, Điều 54 bổ sung thêm rất nhiều yếu tố như: vấn đề chỉ định người giám hộ của Tòa án, việc xem xét nguyện vọng của cá nhân được giám hộ, việc xác định người giám hộ cho người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.
Điều 54. Cử, chỉ định người giám hộ
1. Trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự không có người giám hộ đương nhiên theo quy định tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật này thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người giám hộ.
Trường hợp có tranh chấp giữa những người giám hộ quy định tại Điều 52 và Điều 53 của Bộ luật này về người giám hộ hoặc tranh chấp về việc cử người giám hộ thì Tòa án chỉ định người giám hộ.
Trường hợp cử, chỉ định người giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của người này.
2. Việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ.
3. Việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thể của người giám hộ, tình trạng tài sản của người được giám hộ.
4. Trừ trường hợp áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này, người giám hộ của người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi do Tòa án chỉ định trong số những người giám hộ quy định tại Điều 53 của Bộ luật này. Trường hợp không có người giám hộ theo quy định trên, Tòa án chỉ định người giám hộ hoặc đề nghị một pháp nhân thực hiện việc giám hộ.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338