Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ. Đơn phương chấm dứt hợp đồng cung ứng dịch vụ là một bên đơn phương hủy bỏ hợp đồng mà không cần có sự đồng ý của bên kia. Việc hủy bỏ hợp đồng xảy ra trong những trường hợp bên kia vi phạm là điều kiện hủy bỏ hợp đồng mà 2 bên đã thỏa thuận, do bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng hoặc do pháp luật quy định. Trường hợp này bên hủy bỏ hợp đồng không phải bồi thường thiệt hại. Hủy bỏ hợp đồng là cơ sở của việc chấm dứt hợp đồng dân sự đã giao kết mặc dù hợp đồng đã có hiệu lực.
Khi hợp đồng bị hủy bỏ có nghĩa hợp đồng coi như không tồn tại ngay từ đầu, mặc dù có thể đã được thực hiện một phần. Điều kiện để một bên hủy bỏ hợp đồng trong trường hợp này là sự vi phạm hợp đồng của bên kia, nhưng bên hủy bỏ hợp đồng không thể hủy bỏ hợp đồng một cách đương nhiên, mà phải thông báo cho bên kia biết việc hủy bỏ hợp đồng, phải nói rõ nguyên nhân dẫn đến việc hủy bỏ hợp động. Khi hợp đồng bị hủy bỏ, thì hợp đồng không có hiệu lực kể từ khi giao kết và các bên phải trả lại cho nhau tài sản đã nhận. Quyền đơn phương hủy bỏ hợp đồng có thể do các bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Cơ sở chung của các quy định về hủy bỏ hợp đồng là một bên hợp đồng không thực hiện nghĩa vụ, chậm thực hiện nghĩa vụ, thực hiện nghĩa vụ không đầy đủ hoặc không có khả năng thực hiễn nghĩa vụ.
Tại Điều 520 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về việc đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ. Theo đó, trường hợp việc tiếp tục thực hiện công việc không có lợi cho bên sử dụng dịch vụ thì bên sử dụng dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, nhưng phải báo cho bên cung ứng dịch vụ biết trước một thời gian hợp lý; bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền công theo phần dịch vụ mà bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện và bồi thường thiệt hại. Trường hợp bên sử dụng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì bên cung ứng dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Đơn phương chấm dứt hợp đồng của bên sử dụng dịch vụ, trong hợp đồng dịch vụ có đối tượng đặc biệt là công việc phải thực hiện, theo đó, bên cung ứng thực hiện công việc theo yêu cầu và vì lợi ích của bên sử dụng. Nhưng khi bên sử dụng xét thấy công việc có được thực hiện hay không cũng không đem lại lợi ích gì cho họ thì có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng. Như vậy, không cần có hành vi vi phạm của bên cung ứng nhưng bên sử dụng vẫn được đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng nếu việc tiếp tục thực hiện không đem lại lợi ích gì cho họ. Điều kiện kèm theo là bên sử dụng phải thông báo trước cho bên cung ứng biết về việc chấm dứt hợp đồng. Việc thông báo trước được thực hiện trong một quãng thời gian hợp lý để bên cung ứng có thể kịp thời chuẩn bị phương án giảm thiểu thiệt hại có thể xảy ra.
Đơn phương chấm dứt hợp đồng chỉ chấm dứt hiệu lực phần hợp đồng chưa thực hiện, còn phần hợp đồng đã thực hiện thì vẫn có giá trị với các bên. Trong hợp đồng dịch vụ, có thể trước khi chấm dứt hợp đồng bên cung ứng đã thực hiện một phần công việc, theo đó bên sử dụng vẫn phát sinh nghĩa vụ thanh toán tiền công cho phần hợp đồng mà bên cung ứng đã thực hiện. Việc chấm dứt hợp đồng này không xuất phát từ lỗi của bên cung ứng, mà đơn thuần pháp luật chỉ tạo điều kiện cho bên sử dụng được quyền chấm dứt hợp đồng trước thời hạn để giảm thiểu thiệt hại do thực hiện công việc không đem lại lợi ích. Chính vì vậy, mà nếu đơn phương chấm dứt hợp đồng gây thiệt hại cho bên cung ứng thì bên sử dụng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Đơn phương chấm dứt hợp đồng của bên cung ứng dịch vụ, khác với bên sử dụng dịch vụ và giống với nguyên tắc chung khi đơn phương chấm dứt hợp đồng, bên cung ứng được đơn phương chấm dứt hợp đồng khi bên sử dụng vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ. Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ là hành vi vi phạm của một bên khiến cho bên bên còn lại không đạt được lợi ích khi tham gia hợp đồng. Bên sử dụng có thể vi phạm nghiêm trọng trong việc cung cấp thông tin, tài liệu, phương tiện thực hiện hợp đồng khiến cho bên cung ứng không thể hoàn thành công việc, hoặc vi phạm nghĩa vụ trong việc thanh toán tiền dịch vụ theo thỏa thuận…; giống như hầu hết các trường hợp khác, để giảm thiểu thiệt hại bên cung ứng được quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại tương đương với mức độ lỗi của bên sử dụng dịch vụ.
Theo quy định pháp luật, thì căn cứ để hai bên trong hợp đồng dịch vụ đơn phương chấm dứt hợp đồng không giống nhau. Đối với bên sử dụng dịch vụ thì quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng xuất phát từ lợi ích thì được từ quá trình thực hiện công việc của bên cung ứng. Còn với bên cung ứng dịch vụ thì quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng xuất phát từ hành vi vi phạm nghĩa vụ của bên sử dụng. Như vậy, nếu bên cung ứng dịch vụ muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng cung ứng dịch vụ thì phải chứng minh được bên sử dụng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng.
Điều 520. Đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng dịch vụ
1. Trường hợp việc tiếp tục thực hiện công việc không có lợi cho bên sử dụng dịch vụ thì bên sử dụng dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng, nhưng phải báo cho bên cung ứng dịch vụ biết trước một thời gian hợp lý; bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền công theo phần dịch vụ mà bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện và bồi thường thiệt hại.
2. Trường hợp bên sử dụng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì bên cung ứng dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338