Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Trong vụ án tranh chấp giành quyền nuôi con, đương sự muốn nuôi con thì phải chứng minh được những điều kiện cụ thể mà bản thân có thể đáp ứng cho sự phát triển tốt nhất của con. Nếu hai bên đương sự không tự thỏa thuận được về vấn đề con chung, thì Tòa án sẽ dựa vào quyền lợi của con để quyết định việc giao con cho một bên có điều kiện tốt nhất trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con.
Tòa án ưu tiên nguyên tắc tự thỏa thuận:
Tại Điều 5, Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 nguyên tắc tự quyết, tự định đoạt của các đương sự được đề cao, tòa án chỉ giải quyết yêu cầu khi có đơn và chỉ giải quyết những vấn đề liên quan đến nội dung đơn, khuyến khích việc tự thỏa thuận với nhau. Vì vậy, khi giải quyết các vụ án dân sự nói chung và vụ án về ly hôn nói chung, đặc biệt là án ly hôn có tranh chấp liên quan đến con cái, tài sản, thì tòa án luôn dựa vào nguyên tắc tự thỏa thuận, những vấn đề nào các đương sự không tự thỏa thuận được thì tòa án sẽ giải quyết.
Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ nuôi con trong các trường hợp sau đây: Con chưa thành niên; con đã thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Bếu không thỏa thuận được thì Tòa án sẽ căn cứ vào các điều kiện tốt nhất cho con để chỉ định người được quyền nuôi con. Bên cạnh đó, tại Điều 81, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nêu rõ trách nhiệm của cha mệ trong việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn: Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình; Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con.
Nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con, tại phiên tòa thẩm phán phụ trách phiên tòa giải quyết ly hôn là người có thẩm quyền lấy ý kiến trẻ từ đủ 07 tuổi về việc muốn sống với cha hay với mẹ. Khi lấy ý kiến của trẻ phải tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều 208 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 là phải bảo đảm thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của trẻ; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ. Đặc biệt, việc lấy ý kiến phải đảm bảo giữ bí mật cá nhân của trẻ. Theo Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/04/2017 của Tòa án Nhân dân Tối cao tại điểm 26 Mục IV cũng hướng dẫn về quy định nêu trên như sau: “Phương pháp lấy ý kiến phải bảo đảm thân thiện với trẻ em. Tuy nhiên, Tòa án phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của người con để quyết định giao cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng”. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con, tuy nhiên việc giao con dưới 36 tháng tuổi cho người mẹ trực tiếp nuôi nhưng trong trường hợp người cha chứng minh được người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con thì Tòa án vẫn có thể giao con cho người cha trực tiếp nuôi con.
Để giành được quyền nuôi con, đương sự là cha hoặc mẹ phải chứng minh được bản thân mình có đủ các điều kiện về phẩm chất đạo đức, có thời gian, có nơi ở, có điều kiện việc làm - thu nhập ổn định để tạo cho con được trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục tốt nhất nhằm phát triển tốt nhất về mọi mặt. Về điều kiện kinh tế: Phải chứng minh mình có đủ điều kiện thu nhập - việc làm, tài sản, nơi ở ổn định… Về tinh thần phải chứng minh bản thân có đủ thời gian để ở bên con, chăm sóc, nuôi dưỡng con, luôn phải đặt con lên hàng đầu. Ngoài ra, để giành được quyền nuôi con các đương sự phải cung cấp thêm các chứng cứ chứng minh người còn lại không đủ điều kiện về vật chất, tinh thần, phẩm chất đạo đức để nuôi dạy con cái như: Thường xuyên có hành vi bạo hành, việc làm - thu nhập không ổn định, có hành vi vi phạm pháp luật, khó có điều kiện để dành thời gian cho con.
Nghĩa vụ của cha mẹ đối với con sau khi ly hôn:
Tại Điều 69, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định rõ: Cha mẹ có nghĩa vụ phải thương yêu con, tôn trọng ý kiến của con; chăm lo việc học tập, giáo dục để con phát triển lành mạnh về thể chất, trí tuệ, đạo đức, trở thành người con hiếu thảo của gia đình, công dân có ích cho xã hội. Trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Giám hộ hoặc đại diện theo quy định của Bộ luật dân sự cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự. Không được phân biệt đối xử với con trên cơ sở giới hoặc theo tình trạng hôn nhân của cha mẹ; không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động; không được xúi giục, ép buộc con làm việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội.
Nghĩa vụ đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quy định tại Điều 82, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 gồm: Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi; Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con; Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.
Nghĩa vụ, quyền của cha, mẹ trực tiếp nuôi con đối với người không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn được quy định tại Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: Cha, mẹ trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 của Luật này; yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình; Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Trong trường hợp người trực tiếp nuôi con không muốn tiếp tục nuôi con, không đảm bảo được điều kiện vật chất, nơi ở, thu nhập, thời gian để chăm sóc, nuôi dưỡng con, không đảm bảo được sự phát triển tốt cho con, có phẩm chất đạo đức không tốt, thậm chí là vi phạm pháp luật, bạo hành đối với con… và những nguyên nhân khác thì đương sự còn lại là vợ hoặc chồng có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Quy định này được nêu khá rõ tại Điều 84, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con. Việc thay đổi người trực tiếp nuôi con được giải quyết khi có một trong các căn cứ sau: Cha, mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phù hợp với lợi ích của con; người trực tiếp nuôi con không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; việc thay đổi người trực tiếp nuôi con phải xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi trở lên. Trong trường hợp xét thấy cả cha và mẹ đều không đủ điều kiện trực tiếp nuôi con thì Tòa án quyết định giao con cho người giám hộ trên cơ sở lợi ích của con, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con: Người thân thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; Hội liên hiệp phụ nữ.
Mặc dù đã có các quy định pháp luật điều chỉnh rất cụ thể về vấn đề tranh chấp giành quyền nuôi con, nhưng thực tiễn giải quyết các vụ án về ly hôn có tranh chấp con chung cho thấy việc giải quyết tranh chấp nuôi con khá phức tạp, vì nó liên quan đến việc đánh giá, xác minh, chứng minh điều kiện thực tế của từng người, mong muốn của trẻ (nếu con trên 7 tuổi), rồi việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, việc thi hành án giao con cho bên được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng còn nhiều khó khăn, bất cập do đương sự là vợ hoặc chồng không hợp tác, chuyển chỗ ở gây khó khăn cho công tác thi hành án. Trong thời gian tới, cơ quan lập pháp cần xây dựng và ban hành các quy định để xử lý triệt để các khó khăn, bất cập này.