Tại Điều 455 Bộ luật Dân sự năm 2015 hợp đồng trao đổi tài sản được quy định cụ thể như sau:
Thứ nhất, hợp đồng trao đổi tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó các bên giao tài sản và chuyển quyền sở hữu đối với tài sản cho nhau.
Thứ hai, hợp đồng trao đổi tài sản phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký, nếu pháp luật có quy định.
Thứ ba, trường hợp một bên trao đổi cho bên kia tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình hoặc không được chủ sở hữu ủy quyền thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Thứ tư, mỗi bên đều được coi là người bán đối với tài sản giao cho bên kia và là người mua đối với tài sản nhận về. Các quy định về hợp đồng mua bán từ Điều 430 đến Điều 439, từ Điều 441 đến Điều 449 và Điều 454 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng trao đổi tài sản.
Về bản chất của hợp đồng trao đổi tài sản là hai hợp đồng mua bán tuy nhiên việc thanh toán ở đây không phải bằng tiền mà bằng hiện vật. Tài sản được đem ra trao đổi ở đây phải thuộc quyền sở hữu của các bên. Trường hợp một bên trao đổi cho bên kia tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình hoặc không được chủ sở hữu ủy quyền thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Khi trao đổi nếu tài sản đem trao đổi có giá trị khác nhau thì các bên phải thanh toán phần chênh lệch cho nhau.
Tài sản đem trao đổi phải thuộc quyền sở hữu của mỗi bên, bên này định đoạt tài sản của mình đồng thời làm phát sinh quyền sở hữu của bên kia đối với tài sản đã định đoạt. Bản chất của hợp đồng trao đổi tài sản (vật) là hai hợp đồng mua bán tài sản nhưng việc thanh toán hợp đồng không phải bằng tiền mà bằng hiện vật. Vì vậy, nếu có tranh chấp về hợp đồng trao đổi ngoài việc áp dụng các quy định của hợp đồng trao đổi tài sản còn phải áp dụng các quy định của hợp đồng mua bán tài sản theo quy định tại khoản 4 Điều 455. Khi trao đổi, nếu tài sản đem trao đổi có giá trị khác nhau, các bên phải thanh toán phần chênh lệch cho nhau. Trong thực tế, có Trường hợp một bên có tài sản giá trị lớn hơn tài sản của bên kia nhưng các bên trao đổi cho nhau mà không tính đền bù phần chênh lệch. Điều này phụ thuộc vào sự thoả thuận của các bên.
Hợp đồng trao đổi tài sản là hợp đồng có mục đích là chuyển giao quyền sở hữu tài sản. Thông thường, hợp đồng mua bán tài sản là dùng tiền để có vật; còn hợp đồng trao đổi tài sản là dùng vật đổi vật.Vật trong hợp đồng trao đổi thường là vật đặc định vì sẽ không có ý nghĩa gì nếu các bên trao đổi vật cùng loại với nhau.Liên quan đến tài sản là tiền, có quan điểm cho rằng, tiền không thể là đối tượng của hợp đồng trao đổi vì tiền luôn được coi là công cụđịnh giá các loại tài sản khác và không ai mang tiền đổi lấy tiền. Đây là quan điểm không chính xác, trên thực tế, việc mang Việt Nam đồng đi đổi ngoại tệ (chủ yếu là đổi lấy Đô la) bản chất chính là hợp đồng trao đổi tài sản mà đối tượng trao đổi là tiền (trao đổi nội tệ với ngoại tệ)
Hợp đồng trao đổi tài sản là hợp đồng song vụ, có đền bù. Tính chất song vụ của hợp đồng trao đổi tài sản được thể hiện ở việc cả hai bên trong hợp đồng trao đổi đều có nghĩa vụ đối với nhau.Đây là hợp đồng có đền bù vì các bên đều có lợi ích vật chất phát sinh từ hợp đồng.
Hình thức của hợp đồng trao đổi phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các bên hoặc do pháp luật quy định. Hợp đồng trao đổi có thể được giao kết bằng hành vi, lời nói hoặc văn bản. Trong trường hợp luật quy định hợp đồng trao đổi tài sản phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký thì phải tuân thủ theo đúng hình thức đó.
Về nguyên tắc người trao đổi tài sản phải là chủ sở hữu của tài sản hoặc người có quyền khác được thực hiện việc trao đổi với tài sản như người được chủ sở hữu ủy quyền. Trường hợp một bên trao đổi cho bên kia tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình hoặc không được chủ sở hữu ủy quyền thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Đây là những trường hợp bên trao đổi không được quyền thực hiện hành vi trao đổi tài sản với người khác nhưng vẫn tiến hành định đoạt đối với tài sản. Quy định này không thực sự triệt để vì chưa quan tâm đến ý chí của các bên trong hợp đồng trao đổi. Vì có những trường hợp bên kia biết được tài sản không thuộc sở hữu của bên trao đổi nhưng vẫn cố ý thực hiện trao đổi thì giải quyết như thế nào, thì đây vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa được ghi nhận cụ thể trong điều luật này.
Bên cạnh đó, hợp đồng trao đổi được coi là hợp đồng mua bán kép, mỗi bên đều được coi là người bán đối với tài sản giao cho bên kia và là người mua đối với tài sản nhận về. Do đó, hầu hết các quy định về mua bán tài sản cũng được áp dụng cho hợp đồng trao đổi tài sản, cụ thể: Các quy định về hợp đồng mua bán tài sản từ Điều 430 đến Điều 439, từ Điều 441 đến điều 449 và Điều 454 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đông trao đổi tài sản. Chỉ có các điều luật sau quy định về hợp đồng mua bán nhưng không áp dụng cho hợp đồng trao đổi tài sản: Điều 440 về Nghĩa vụ trả tiền, Điều 450 về mua bán quyền tài sản, Điều 451 về bán đấu giá tài sản, Điều 452 về mua sau khi sử dụng thử, Điều 453 về mua trả chậm, trả dần. Những quy định này không áp dụng cho hợp đồng trao đổi vì đây là những quy định mang tính chất đặc thù chỉ có thể áp dụng cho hợp đồng mua bán tài sản.
Điều 455. Hợp đồng trao đổi tài sản
1. Hợp đồng trao đổi tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó các bên giao tài sản và chuyển quyền sở hữu đối với tài sản cho nhau.
2. Hợp đồng trao đổi tài sản phải được lập thành văn bản, có công chứng, chứng thực hoặc đăng ký, nếu pháp luật có quy định.
3. Trường hợp một bên trao đổi cho bên kia tài sản không thuộc quyền sở hữu của mình hoặc không được chủ sở hữu ủy quyền thì bên kia có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
4. Mỗi bên đều được coi là người bán đối với tài sản giao cho bên kia và là người mua đối với tài sản nhận về. Các quy định về hợp đồng mua bán từ Điều 430 đến Điều 439, từ Điều 441 đến Điều 449 và Điều 454 của Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng trao đổi tài sản.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338