Tại Điều 674 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Theo đó, năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 674. Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam. Việc xác định cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 19 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì, năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự; năng lực hành vi cũng là khả năng gánh vác và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Mỗi quốc gia có các điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau nên quy định về năng lực hành vi của cá nhân cũng không giống nhau. Vì thế khi phát sinh một quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài không tránh khỏi việc xảy ra xung đột pháp luật về năng lực hành vi của chủ thể. Pháp luật Việt Nam quy định năng lực hành vi của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch. Như vậy một người có khả năng bằng hành vi của mình thực hiện các quan hệ dân sự theo quy định của pháp luật nước họ. Ví dụ, có nước quy định độ tuổi kết hôn là 16, có nước lại quy định nam nữ đủ 18 tuổi mới được kết hôn…
Viêc quy định năng lực hành vi của cá nhân pháp luật Việt Nam áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch, theo đó tại Điều 674 Bộ luật Dân sự năm 2015 năng lực hành vi của cá nhân là người nước ngoài được xác lập theo pháp luật của nước mà người đó là công dân; đây là một quy định phù hợp với quy định của pháp luật quốc tế vì do điều kiện kinh tế, xã hội khác nhau mà mỗi cá nhân sẽ có những khả năng bằng hành vi của mình xác lập quyền và nghĩa vụ dân sự khác nhau. Bên cạnh việc xác định năng lực hành vi của người nước ngoài theo luật quốc tịch, khoản 2 Điều 674 ghi nhân trường hợp không áp dụng nguyên tắc Luật quốc tịch. Cụ thể là trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự trên lãnh thổ Việt Nam thì năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó sẽ được xác định theo pháp luật Việt Nam, quy định này giúp thuận tiện cho các giao dịch dân sự mà người nước ngoài xác lập, thực hiện tại Việt Nam.
Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam, thì năng lực hành vi dân sự của họ được xác định theo pháp luật Việt nam; theo nguyên tắc, mọi công dân sinh sống làm việc trên lãnh thổ Việt Nam thì phải tuân thủ theo quy định của pháp luật Việt Nam; đây là quy đinh nhằm bảo vệ pháp luật quốc gia. Vì nơi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự là tại Việt Nam nên việc xem xét năng lực hành vi của người nước ngoài không căn cứ vào luật nước họ mang quốc tịch, mà phải căn cứ vào pháp luật Việt Nam. Ví dụ: H là người nước ngoài xác lập hợp đồng mua bán nhà với công ty bất động sản Việt Nam, theo quy định của pháp luật Việt Nam người từ đủ 18 tuổi được tham gia vào bất kỳ quan hệ pháp luật dân sự nào (không trái với quy định của pháp luật và đạo đức). Tuy nhiên theo quy định của pháp luật nước mà H mang quốc tịch thì, chỉ người đủ 20 tuổi mới có thể tham gia xác lập hợp đồng mua bán bất động sản. Lúc này H được xác định là có quyền xác lập, thực hiện hợp đồng trên vì, hợp đồng đó được ký tại Việt Nam nên phải tuân thủ theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Việc xác định cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam; Tại khoản này, Việt Nam áp dụng nguyên tắc Luật của nước nơi thực hiện hành vi (Lex loci actus) là phù bởi nó là hệ thuộc luật khách quan nhất và công bằng nhất trong trường hợp này. (Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ (2017), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb.Công an nhân dân)
Điều 674. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
1. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này.
2. Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam.
3. Việc xác định cá nhân bị mất năng lực hành vi dân sự, có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự tại Việt Nam theo pháp luật Việt Nam.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338