Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Luật sư Hà Thị Khuyên
Tại Điều 293 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện.
Thứ ba, trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Nghĩa vụ được bảo đảm là quan hệ nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ phải đảm bảo bằng tài sản của mình… bao gồm nghĩa vụ chuyển giao vật; chuyển giao quyền, nghĩa vụ trả tiền hoặc giấy tờ có giá, nghĩa vụ thực hiện công việc khác. Thông thường các bên sẽ thỏa thuận về việc nghĩa vụ được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ. Pháp luật sẽ quy định trong một số trường hợp phạm vi đảm bảo sẽ là một phần hoặc toàn bộ, cụ thể tại khoản 1 Điều 336 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về phạm vi bảo lãnh như sau: Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh.
Khi tham gia vào bất kỳ quan hệ nghĩa vụ nào, bên có nghĩa vụ cũng phải thực hiện đúng nghĩa vụ mà các bên đã thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định. Nếu bên mang nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ, thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ mà gây thiệt hại cho bên có quyền thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Như vậy, bên có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với bên có quyền. Do đó, phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm khi các bên không có thỏa thuận, pháp luật cũng không có quy định khác thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ. Nghĩa vụ đảm bảo có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ hình thành trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện. Nghĩa vụ hiện tại là nghĩa vụ đã hình thành tại thời điểm xác lập biện pháp đảm bảo.
Nghĩa vụ hình thành trong tương lai là nghĩa vụ hình thành sau thời điểm xác lập biện pháp bảo đảm. Khác với nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ hình thành trong tương lai là việc mà bên có nghĩa vụ xác lập biện pháp bảo đảm với bên có quyền, nhưng chỉ thực sự hình thành nghĩa vụ vào một thời điểm khác trong tương lai theo thỏa thuận của các bên. Các bên sẽ thỏa thuận xác lập biện pháp bảo đảm trước, sau đó nghĩa vụ hình thành sau. Tuy nhiên, khi thỏa thuận về nghĩa vụ đảm bảo hình thành trong tương lai các bên phải xác định thời hạn đảm bảo. Nếu nghĩa vụ đảm bảo hình thành sau khi thời hạn của biện pháp đảm bảo đã hết thì, nghĩa vụ bảo đảm sẽ không còn hiệu lực.
Nghĩa vụ có điều kiện là việc các bên thỏa thuận về điều kiện thực hiện nghĩa vụ, theo đó, nghĩa vụ bảo đảm chỉ hình thành khi phát sinh điều kiện đó. Cụ thể khi bảo lãnh, bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh khi bên được bảo lãnh không thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ của mình. Điều kiện bảo lãnh ở đây được xác định là khi bên được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ như thỏa thuận với bên nhận bảo lãnh. (Nguyễn Văn Cừ - Trần Thị Huệ, 2017, Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Công an nhân dân).
Điều 293. Phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm
1. Nghĩa vụ có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt và bồi thường thiệt hại.
2. Nghĩa vụ được bảo đảm có thể là nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện.
3. Trường hợp bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338