Language:

Phổ biến pháp luật

Không tố giác tội phạm (Điều 19)

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, người nào biết rõ tội phạm đang được chuẩn bị, đang được thực hiện hoặc đã được thực hiện mà không tố giác, thì phải chịu trách nhiệm hình sự về tội không tố giác tội phạm quy định tại Điều 390 của Bộ luật Hình sự. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích về quy định "Không tố giác tội phạm" tại Điều 19 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Sự kiện bất ngờ (Điều 20)

Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng, Văn phòng Luật sự Nhân Chính phân tích, người thực hiện hành vi gây hậu quả nguy hại cho xã hội trong trường hợp không thể thấy trước hoặc không buộc phải thấy trước hậu quả của hành vi đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích về "Sự kiện bất ngờ" quy định tại Điều 20 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự (Điều 21)

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích về "Tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự" quy định tại Điều 21 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Phòng vệ chính đáng (Điều 22)

Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích về quy định "Phòng vệ chính đáng" tại Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tình thế cấp thiết (Điều 23)

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, tình thế cấp thiết là tình thế của người vì muốn tránh gây thiệt hại cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà không còn cách nào khác là phải gây một thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa. Hành vi gây thiệt hại trong tình thế cấp thiết không phải là tội phạm. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích về "Tình thế cấp thiết" quy định tại Điều 23 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24)

Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, hành vi của người để bắt giữ người thực hiện hành vi phạm tội mà không còn cách nào khác là buộc phải sử dụng vũ lực cần thiết gây thiệt hại cho người bị bắt giữ thì không phải là tội phạm. Trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết, thì người gây thiệt hại phải chịu trách nhiệm hình sự. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích về quy định "Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội" tại Điều 24 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều 25)

Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích về "Rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ" quy định tại Điều 25 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (Điều 26)

Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, người thực hiện hành vi gây thiệt hại trong khi thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên trong lực lượng vũ trang nhân dân để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh nếu đã thực hiện đầy đủ quy trình báo cáo người ra mệnh lệnh nhưng người ra mệnh lệnh vẫn yêu cầu chấp hành mệnh lệnh đó, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này người ra mệnh lệnh phải chịu trách nhiệm hình sự. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích về "Thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên" quy định tại Điều 26 Bộ luật Hình sự năm 2015.