Tranh chấp di sản thừa kế là loại tranh chấp phổ biến nhất hiện nay, đặc thù của loại tranh chấp này là những người tham gia vụ án đều là những người thân thích trong gia đình. Vì vậy, việc giải quyết tranh chấp phải đảm bảo hài hòa cả về lợi ích lẫn tình cảm, để các bên đương sự tham gia vụ án đều bảo vệ được tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
di sản thừa kế
Theo quy định tại Điều 628 Bộ luật Dân sự năm 2015, di chúc bằng văn bản có 04 loại, gồm: di chúc bằng văn bản không có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có công chứng, di chúc bằng văn bản có chứng thực. Để các loại di chúc bằng văn bản này đúng quy định, hình thức và nội dung di chúc phải đúng pháp luật để đảm bảo tính hợp pháp của di chúc.
Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng cho biết, trong vụ án tranh chấp thừa kế, luật sư tham gia tố tụng với tư cách là “người đại diện theo ủy quyền” hoặc “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp” cho đương sự.
Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng phân tích, theo quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết.
Theo quy định Điều 649 Bộ luật Dân sự năm 2015, thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm định đoạt tài sản của mình cho người khác sau khi chết, quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên phân tích, chia thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015. Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, theo quy định pháp luật thì “Di chúc viết tay” vẫn được xem là một loại di chúc theo hình thức văn bản có hoặc không có người làm chứng, khi đáp ứng được các điều kiện, nội dung cần có của di chúc thì di chúc viết tay vẫn hợp pháp. Di chúc viết tay và di chúc công chứng, chứng thực đều có giá trị pháp lý tương đương nhau.
Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, theo quy định pháp luật thì người thừa kế theo pháp luật tài sản của người đã chết phải có nghĩa vụ trả nợ trong phạm vi phần di sản được hưởng, khi người có tài sản chết thì những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất gồm cha, mẹ, vợ, chồng, con của người này sẽ là đồng thừa kế đối với tài sản do người chết để lại, là đồng thừa kế nên những người này đều có nghĩa vụ trong phạm vi kỷ phần di sản mình được hưởng để trả nợ thay người đã chết, khi thực hiện xong nghĩa vụ trả nợ thì di sản còn lại giá trị bao nhiêu khi ấy mới tiến hành chia cho các đồng thừa kế.
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, theo quy định tại Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình, để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, tại Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật. Người thừa kế không là cá nhân có quyền hưởng di sản theo di chúc. Mọi cá nhân đều bình đẳng về quyền để lại tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, khi có xảy ra tranh chấp về di sản thừa kế thì cá nhân, tổ chức có thể yêu cầu Tòa án nhân dân giải quyết tranh chấp thừa kế theo trình tự của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Trình tự, thủ tục khởi kiện vụ án khởi kiện chia di sản thừa kế phải bảo đảm điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật.
Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, Văn bản từ chối nhận di sản thừa kế sẽ có giá trị pháp luật khi văn bản từ chối nhận di sản thừa kế đã được công chứng hoặc văn bản từ chối nhận di sản thừa kế đã được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết. Hiện nay, pháp luật không quy định trường hợp người thừa kế được thay đổi ý chí sau khi đã làm thủ tục từ chối nhận di sản, nên nếu văn bản từ chối nhận di sản thừa kế đã có giá trị pháp lý thì không thể thay đổi được.
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, hiện nay thực tế tồn tại rất nhiều trường hợp quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất (sổ đỏ, sổ hồng) đứng tên hộ gia đình. Vì thế, khi phân chia di sản thừa kế khi sổ đỏ đứng tên hộ gia đình cần lưu ý nhiều vấn đề, nhất là khi xác định phần di sản nào sẽ được chia, việc xác định này ảnh hưởng trực tiếp đến phần thừa kế được hưởng và nghĩa vụ của các hàng thừa kế nếu có. Bởi vậy, chia thừa kế khi sổ đỏ đứng tên hộ gia đình khác so với trường hợp nhà đất là tài sản chung của vợ chồng hoặc tài sản riêng của người chết, khắc ở chỗ phải xác định phần di sản trong khối tài sản chung là quyền sử dụng đất mà có sổ đỏ, số hồng được cấp cho hộ gia đình.
Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích, hiện nay theo quy định của pháp luật dân sự, thì việc phân chia di sản theo pháp luật chỉ được thực hiện khi không có di chúc hoặc có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp. Tuy nhiên pháp luật hiện nay cũng có quy định về những trường hợp tuy không có tên trong di chúc nhưng vẫn được nhận di sản thừa kế.
Luật sư Nguyễn Văn Đồng và Luật sư Hà Thị Khuyên, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích về thời hiệu chia di sản thừa kế được xác định thế nào? Theo quy định tại Điều 623 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì có 03 loại thời hiệu thừa kế như sau: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế. Hết thời hạn này thì di sản thuộc về người thừa kế đang quản lý di sản đó. Trường hợp không có người thừa kế đang quản lý di sản thì di sản được giải quyết như sau: a) Di sản thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu theo quy định tại Điều 236 của Bộ luật này; b) Di sản thuộc về Nhà nước, nếu không có người chiếm hữu quy định trên. Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 03 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
Luật sư Hà Thị Khuyên và Luật sư Nguyễn Văn Đồng, Văn phòng Luật sư Nhân Chính phân tích và giải đáp nội dung liên quan đến hết thời hiệu chia thừa kế, thì giải quyết ra sao? Trong các văn bản quy phạm pháp luật như Pháp lệnh Thừa kế năm 1990, Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự năm 2015 đều có quy định về thời hiệu thừa kế, phương thức phân chia di sản thừa kế, thời hiệu thừa kế là khoảng thời gian pháp luật quy định để những người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan khởi kiện về thừa kế. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay vẫn tồn tại rất nhiều trường hợp hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế, nếu hết thời hiệu yêu cầu chia thừa kế thì di sản sẽ được xử lý theo cách thức khác.