Language:
Sở hữu chung của vợ chồng (Điều 213)
27/05/2023
icon-zalo

Luật sư Nguyễn Văn Đồng

Luật sư Hà Thị Khuyên

Mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung tương ứng với phần quyền sở hữu của mình, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác; Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền ngang nhau trong việc khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản chung, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

Tại Điều 213 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về sở hữu chung của vợ chồng như sau:

Thứ nhất, sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.

Thứ hai, vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

Thứ ba, vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

Thứ tư, tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.

Thứ năm, trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.

Sở hữu chung của vợ chồng là hình thức sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia, trong thời kỳ còn tồn tại sở hữu chung thì phần quyền sở hữu của mỗi người là như nhau, nhưng khi phân chia có thể do thỏa thuận, do một bên chết, do ly hôn thì phần quyền sở hữu của mỗi người mới được xác định. Việc xác định phần quyền sở hữu của mỗi người là một nửa trên tổng khối tài sản chung trừ khi có thỏa thuận khác hoặc có chứng cứ chứng minh phần công sức đóng góp của mỗi người vào khối tài sản chung là khác nhau. Việc định phần quyền của vợ/chồng trong khối tài sản chung khi phân chia cũng chính là căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu chung của vợ chồng.

Về căn cứ xác lập quyền sở hữu chung của vợ chồng được quy định tại dựa trên các quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể theo Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của Luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung. Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng; Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng; Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung.

 Các giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng phải có sự thỏa thuận hoặc ủy quyền. Pháp luật còn cho phép vợ chồng được thỏa thuận về chế độ sở hữu chung trước khi kết hôn. Sự thỏa thuận này cần phải lập thành văn bản có công chứng và các bên phải thực hiện theo đúng những thỏa thuận này, trừ trường hợp sau đó các bên thỏa thuận hủy bỏ chế độ này thì quyền sở chung của vợ chồng lại tuân theo quy định của pháp luật.

Điều 213. Sở hữu chung của vợ chồng

1. Sở hữu chung của vợ chồng là sở hữu chung hợp nhất có thể phân chia.

2. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

3. Vợ chồng thỏa thuận hoặc ủy quyền cho nhau chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung.

4. Tài sản chung của vợ chồng có thể phân chia theo thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án.

5. Trường hợp vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình thì tài sản chung của vợ chồng được áp dụng theo chế độ tài sản này.

Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338