Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Bạn đọc có câu hỏi: Tại sao hiện nay cơ quan chức năng không công khai danh tính người mua dâm? Chế tài xử lý người mua dâm là gì?
Giải đáp của luật sư: Tại Điều 21 Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Còn tại Điều 34 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân là bất khả xâm phạm và được pháp luật bảo vệ.
Ngoài ra, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012 (sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2020), tại Điều 72 quy định rõ chỉ công bố công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng việc xử phạt đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính trong các trường hợp vi phạm hành chính về an toàn thực phẩm; chất lượng sản phẩm, hàng hóa; dược; khám bệnh, chữa bệnh; lao động; xây dựng; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm y tế; bảo vệ môi trường; thuế; chứng khoán; sở hữu trí tuệ; đo lường; sản xuất, buôn bán hàng giả, gây hậu quả lớn hoặc gây ảnh hưởng xấu về dư luận xã hội thì cơ quan của người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm công bố công khai về việc xử phạt. Như vậy, việc xử phạt hành chính về hành vi mua dâm, bán dâm không thuộc trường hợp cơ quan chức năng được phép công khai quyết định xử phạt.
Bên cạnh đó, tại Nghị định số 119/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản (sửa đổi bổi sung bởi Nghị định 14/2022/NĐ-CP) cũng quy định xử phạt hành vi tiết lộ bí mật đời tư của cá nhân nhưng không được sự đồng ý của cá nhân đó tại điểm i Khoản 3 Điều 8 với mức phạt tiền 20-40 triệu đồng đối với tổ chức; cá nhân vi phạm sẽ chịu mức phạt tiền bằng 1/2 mức quy định và buộc cơ quan báo chí xin lỗi, gỡ bỏ thông tin vi phạm đã đăng, phát.
Nếu công khai thông tin cá nhân hoặc hình ảnh người mua dâm không chỉ gây ảnh hưởng tiêu cực đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của họ mà còn có khả năng hủy hoại cuộc sống gia đình, công việc của họ, không ít gia đình đã tan nát vì có người thân tham gia vào đường dây mua bán dâm, đặc biệt trong thời kỳ công nghệ phát triển như hiện nay thì chỉ cần vài giờ là hình ảnh của người tham gia hoạt động mua bán dâm đã tràn lan khắp các trang mạng xã hội, rồi lan truyền đến đồng nghiệp và người thân trong gia đình. Đây là hệ lụy rất lớn nếu công khai danh tính người mua dâm.
Theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 3 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003, hành vi mua dâm, bán dâm được quy định hành vi bán dâm là hành vi giao cấu của một người với người khác để được trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác. Còn hành vi mua dâm là hành vi của người dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác trả cho người bán dâm để được giao cấu. Điều 4 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003 quy định mua dâm, bán dâm là những hành vi nghiêm cấm thực hiện.
Chế tài xử lý người mua dâm hiện nay, căn cứ Điều 22 Pháp lệnh phòng, chống mại dâm 2003, người có hành vi mua dâm tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử phạt hành chính bằng hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền. Theo đó, Điều 24 Nghị định 144/2021/NĐ-CP quy định mức xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi mua dâm, phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng đối với hành vi mua dâm. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng trong trường hợp mua dâm từ 02 người trở lên cùng một lúc. Hình thức xử phạt bổ sung: Tịch thu tang vật vi phạm hành chính.
Trong trường hợp người mua dâm người dưới 18 tuổi có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 329 Bộ luật Hình sự 2015 về Tội mua dâm người dưới 18 tuổi. Cụ thể, người nào đủ 18 tuổi trở lên mua dâm người dưới 18 tuổi (trừ trường hợp giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người dưới 13 tuổi) thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. Hình phạt tối đa đối với người có hành vi mua dâm người dưới 18 tuổi nêu trên là từ 03 năm đến 07 năm tù giam. Ngoài ra người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
Người mua dâm người chưa thành niên hoặc biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền bệnh cho người khác thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 148 Bộ luật Hình sự. Theo đó, người nào biết mình bị nhiễm HIV mà cố ý lây truyền HIV cho người khác, trừ trường hợp nạn nhân đã biết về tình trạng nhiễm HIV của người bị HIV và tự nguyện quan hệ tình dục, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 03 năm. Mức phạt cao nhất đối với tội danh này lên đến 07 năm tù giam.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338