Theo quy định pháp luật, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự, theo đó, người vi phạm nghĩa vụ pháp lý gây tổn hại cho người khác phải bồi thường những tổn thất do mình gây ra mà giữa người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại và người bị thiệt hại không giao kết hợp đồng hoặc có hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc hành vi thực hiện hợp đồng. Vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được quy định tại Chương XX của Bộ luật Dân sự năm 2015 từ Điều 584 đến Điều 608. Hành vi gây thiệt hại có thể được thực hiện bởi bất kỳ chủ thể nào trong xã hội nhưng không phải chủ thể nào cũng có khả năng thực hiện việc bồi thường, việc thực hiện nghĩa vụ bồi thường còn phụ thuộc vào năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của từng chủ thể.
Khi tài sản bị xâm phạm, thiệt hại được xác định bao gồm hai loại là thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. Tại Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thiệt hại do tài sản bị xâm phạm. Theo đó, thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm: Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại; thiệt hại khác do luật quy định.
(1) Những thiệt hại trực tiếp: Thiệt hại trực tiếp là những thiệt hại có thể xác định cụ thể khi tài sản bị xâm phạm (thiệt hại về giá trị của tài sản bị xâm phạm). Đây là những loại thiệt hại có thể tính toán bằng các đơn vị đo lường ngay tại thời điểm xảy ra thiệt hại. Loại thiệt hại này có thể bao gồm giá trị còn lại của tài sản tại thời điểm gây thiệt hại (khi tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng mà không thể sửa chữa), hoặc đó chính là chi phí sửa chữa, phục hồi công dụng của tài sản (đối với trường hợp tài sản bị hư hỏng nhưng có thể sửa chữa), thiệt hại trực tiếp đối với tài sản gồm:
- Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng, chủ thể có hành vi trái pháp luật làm mất, hư hỏng, hủy hoại tài sản của chủ thể khác thì phải chịu trách nhiệm bồi thường; thiệt hại đối với tài sản bị mất là tình trạng tài sản, giá thị trường của tài sản đó tại thời điểm xảy ra thiệt hại; các bên hoặc tòa án phải xem xét xác định tình trạng tài sản đó tại thời điểm xảy ra thiệt hại. Trên cơ sở xác định giá thị trường của tài sản cùng loại, cùng tình trạng để xác định thiệt hại thực tế dưới hình thức một con số cụ thể, tài sản bị hủy hoại là tài sản không thể khôi phục lại tính năng ban đầu. Đối với thiệt hại của tài sản bị hư hỏng thì được xác định dựa trên những chi phí hợp lý, cần thiết để phục hồi tài sản, đảm bảo tính năng sử dụng ban đầu như trước khi bị thiệt hại.
- Những chi phí phải bỏ ra để ngăn chặn, khắc phục, hạn chế thiệt hại, khi một bên có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho bên kia, thì với tư cách là người có quyền và lợi ích bị xâm phạm họ có nghĩa vụ phải áp dụng các biện pháp cần thiết để hạn chế, ngăn chặn thiệt hại xảy ra, tại khoản 5 Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình, nhưng nghĩa vụ này chỉ đặt ra khi bên bị thiệt hại có đủ điều kiện để áp dụng biện pháp cần thiết để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại, nếu họ có đủ kiện áp dụng các biện pháp đó có thể sẽ làm phát sinh các khoản chi phí cần thiết; những khoản chi phí này là căn cứ để xác định thiệt hại về tài sản, bởi nếu không có hành vi trái pháp luật của chủ thể thì người bị thiệt hại cũng không cần bỏ chi phí để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại.
(2) Những thiệt hại gián tiếp: Đây là những thiệt hại gắn liền với việc khai thác, sử dụng tài sản trong thời gian từ khi xảy ra thiệt hại đến khi bồi thường; có thể xác định được thiệt hại gián tiếp chính là lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút; nếu tài sản không bị mất, hư hỏng, hoặc giảm sút giá trị thì chủ thể hoàn toàn có thể khai thác, sử dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản. Trong quãng thời gian tài sản bị đem đi sửa chữa, khắc phục lỗi làm chủ thể không thể hưởng hoa lợi, lợi tức tài sản đem lại.
Việc bồi thường thiệt hại về tài sản có thể được thực hiện bằng hình thức thanh toán tiền mặt, hiện vật hoặc thực hiện một công việc, trên thực tế bên gây thiệt hại có thể thực hiện bồi thường bằng cách trực tiếp sửa chữa tài sản, hoặc thay thế một tài sản khác có giá trị tương đương; phương thức bồi thường cũng do các bên thỏa thuận lựa chọn, có thể là bồi thường toàn bộ trong một lần hoặc nhiều lần.
Điều 589. Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm bao gồm:
1. Tài sản bị mất, bị hủy hoại hoặc bị hư hỏng.
2. Lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút.
3. Chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại.
4. Thiệt hại khác do luật quy định.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338