Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Luật sư Hà Thị Khuyên
Tại Điều 419 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng. Theo đó, thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 418, Điều 13 và Điều 360 của Bộ luật Dân sự. Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền còn có thể yêu cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại. Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc.
Khoản 1 Điều 419 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 419, Điều 13 và Điều 360 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể, Điều 13 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Tiếp đó, Điều 360 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Như vậy, hai điều luật này có nội hàm giống nhau và đều quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại và mức bồi thường thiệt hại. Quy định như khoản 1 Điều 419 Bộ luật Dân sự năm 2015 mới chỉ làm rõ thiệt hại được bồi thường là lợi ích lẽ ra sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại và chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích do hợp đồng mang lại.
Bên cạnh thiệt hại về vật chất, tổn thất về tinh thần cũng được bồi thường, khoản 3 Điều 419 Bộ luật Dân sự 2015 quy định theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc. Quy định này nằm trong phần hợp đồng, khác với trước đây, trách nhiệm bồi thường tổn thất tinh thần chỉ được áp dụng cho bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, hiện nay đối với các vi phạm hợp đồng trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần vẫn được đặt ra.
Như vậy, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thiệt hại được bồi thường là toàn bộ thiệt hại phát sinh từ việc vi phạm hợp đồng mà bên bị vi phạm phải gánh chịu, có thể bao gồm:
- Lợi ích mà đáng ra người có quyền được nhận theo hợp đồng;
- Chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại;
- Các khoản chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại;
- Thiệt hại về tinh thần phát sinh từ việc vi phạm hợp đồng.
Tuy nhiên Bộ luật Dân sự năm 2015 không có quy định cụ thể để xác định mức bồi thường về tổn thất tinh thần đối với các yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng, mà chỉ quy định mức bồi thường sẽ do Tòa án ấn định căn cứ vào nội dung vụ việc.
Trong một số trường hợp nhất định pháp luật quy định loại trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bên vi phạm, cụ thể: (1) Do các bên thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Bồi thường thiệt hại là quy định của pháp luật để bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm, không phải là quy định bắt buộc, theo đó, các bên có thỏa thuận khác. Nếu các bên đã thỏa thuận miễn trừ trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thì pháp luật vẫn tôn trọng; (2) Thiệt hại xảy ra do lỗi của bên kia. Điều kiện có bản để phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại là lỗi. Nếu bên vi phạm không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại thì không phải chịu trách nhiệm. Quy định này nhằm bảo vệ lợi ích của bên gây thiệt hại, trong trường hợp bên bị thiệt hại cố ý gây tác động làm cho thiệt hại xảy ra để trục lợi; (3) xảy ra sự kiện bất khả kháng. Sự kiện bất khả kháng là những sự kiện tự nhiên mà các bên không thể lường trước được. Nếu sự kiện đó xảy ra khiến cho một bên không thực hiện được nghĩa vụ của mình, trường hợp này nằm ngoài ý chí của bên vi phạm, họ không mong muốn thiệt hại xảy ra, nên để khách quan, công bằng pháp luật miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp này.
Điều 419. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm hợp đồng
1. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều này, Điều 13 và Điều 360 của Bộ luật này.
2. Người có quyền có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà lẽ ra mình sẽ được hưởng do hợp đồng mang lại. Người có quyền còn có thể yêu cầu người có nghĩa vụ chi trả chi phí phát sinh do không hoàn thành nghĩa vụ hợp đồng mà không trùng lặp với mức bồi thường thiệt hại cho lợi ích mà hợp đồng mang lại.
3. Theo yêu cầu của người có quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338