Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Câu hỏi bạn đọc: Luật sư cho tôi hỏi, hiện nay pháp luật quy định những trường hợp nào mặc dù không có tên trong di chúc nhưng vẫn được hưởng tài sản thừa kế do người chết để lại?
Giải đáp của luật sư:
Hiện nay theo quy định của pháp luật dân sự, thì việc phân chia di sản theo pháp luật chỉ được thực hiện khi không có di chúc hoặc có di chúc nhưng di chúc không hợp pháp. Tuy nhiên pháp luật hiện nay cũng có quy định về những trường hợp tuy không có tên trong di chúc nhưng vẫn được nhận di sản thừa kế.
Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân người để lại tài sản đối với phần tài sản thuộc sở hữu của mình. Như vậy, pháp luật cho phép cá nhân người lập di chúc có quyền tự do, tự nguyện, tự định đoạt trong việc lập di chúc để lại tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bất kỳ ai, không phụ thuộc vào mối quan hệ huyết thống, cấp dưỡng, quan hệ vợ chồng… sau khi người lập di chúc chết. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền lợi của một số người có quan hệ với người lập di chúc, pháp luật thừa kế cũng có những quy định hạn chế đối với quyền tự định đoạt của người lập di chúc. Theo đó, Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc. Theo đó, những người sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba suất đó:
- Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng;
- Con thành niên mà không có khả năng lao động.
Quy định tại khoản 1 Điều 644 Bộ luật Dân sự năm 2015không áp dụng đối với người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Theo quy định trên, cha, mẹ, vợ, chồng, các con dưới 18 tuổi và các con tuy đã trưởng thành nhưng không có khả năng lao động của người lập di chúc, mặc dù không được người lập di chúc cho hưởng di sản thừa kế để lại sau khi chết hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật, thì mỗi người trong số họ vẫn được hưởng phần tối thiểu bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật. Pháp luật Việt Nam xác định những người này được ưu tiên hưởng phần di sản mà không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Đây là quy định nhằm giảm thiểu nguy cơ lạm dụng quyền lợi của người viết di chúc, để ưu tiên một số người thừa kế có quan hệ thân thích với người lập di chúc.
Việc không phụ thuộc hoàn toàn vào nội dung của di chúc giúp bảo vệ quyền lợi của những người thừa kế, đặc biệt là khi di chúc có thể không được lập một cách công bằng và minh bạch. Bên cạnh đó, quy định này cũng phù hợp với những quy chuẩn đạo đức và phong tục tập quán của người Việt Nam, ưu tiên cho những người thừa kế yếu thế là một cách để bảo vệ giá trị gia đình, phản ánh tinh thần nhân văn trong quy định của pháp luật. Tuy nhiên, không phải tất cả những người có mối quan hệ trên với người để lại di sản đều là người được hưởng thừa kế, họ cần phải thỏa mãn các điều kiện:
Thứ nhất, không thuộc trường hợp những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015. Cụ thể:
- Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
- Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
- Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.
Thứ hai, không thuộc trường hợp những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, những người sau đây không được quyền hưởng di sản:
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
Khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện nói trên thì những người này sẽ được hưởng một phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật nếu di sản được chia theo pháp luật.
Có thể thấy, bên cạnh việc tôn trọng ý chí của người để lại di sản, pháp luật vẫn quy định một số trường hợp hạn chế quyền định đoạt của người lập di chúc nếu như họ còn có nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc những người có mối quan hệ gần gũi trong gia đình. Pháp luật về thừa kế quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có những quy định cụ thể nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho những trường hợp không có tên trong di chúc về thừa kế.
Hiệu lực của di chúc: Theo quy định tại Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hiệu lực của di chúc như sau:
- Di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế.
- Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp:
+ Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
+ Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.
- Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
- Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.
- Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338