Hợp đồng vận chuyển tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên vận chuyển có nghĩa vụ chuyển tài sản đến địa điểm đã định theo thỏa thuận và giao tài sản đó cho người có quyền nhận, bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả cước phí vận chuyển.
Tại Điều 531 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định hình thức hợp đồng vận chuyển tài sản. Theo đó, hợp đồng vận chuyển tài sản được giao kết bằng văn bản, bằng lời nói hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Vận đơn hoặc chứng từ vận chuyển tương đương khác là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng giữa các bên.
Hợp đồng vận chuyển tài sản có thể được giao kết bằng văn bản, bằng lời nói hoặc bằng hành vi. Trong hợp đồng vận chuyển tài sản có vận đơn thì vận đơn là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng giữa các bên. Bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ giao tài sẵn cho bên vận chuyển đúng thời hạn, địa điểm và đóng gói theo đúng quy cách đã thoả thuận, phải chịu chỉ phí bốc xếp tài sản lên phương tiện vận chuyển, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Bên vận chuyển có nghĩa vụ vận chuyển tài sản đầy đủ, an toàn đến địa điểm trả tài sản đã định theo đúng thời hạn, mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự đối với tài sản theo quy định của pháp luật, bồi thường cho bên thuê khi để mất mát, hư hỏng tài sản do lỗi của mình, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác, có quyền kiểm tra sự xác thực của tài sản cũng như của vận đơn, yêu cầu bên thuê vận chuyển thanh toán cước phí vận chuyển đúng thời hạn, từ chối vận chuyển tài sản cấm giao dịch, tài sản có tính chất nguy hiểm, độc hại.
Hợp đồng vận chuyển tài sản được giao kết bằng văn bản khi giá trị, số lượng của tài sản cần chuyên chở lớn. Vì nếu giá trị, số lượng của tài sản chuyên chở lớn không chỉ có quyền lợi của bên thuê vận chuyển bị ảnh hưởng nặng nề khi xảy ra rủi ro, mà trách nhiệm của bên vận chuyển trong quá trình chuyên chở cũng cao hơn. Do đó, sự ghi nhận bằng văn bản là cơ sở pháp lý chặt chẽ để bảo vệ lợi ích của các bên trong hợp đồng, đồng thời là căn cứ hợp pháp không thể chối cãi để giải quyết nếu có tranh chấp xảy ra; thông thường đối với những hợp đồng vận chuyển có giá trị lớn thì bên vận chuyển thường là một công ty hay hợp tác xã khi giao kết hợp đồng vận chuyển tài sản với nhau hoặc với các chủ thể khác nên thường sẽ lựa chọn hình thức hợp đồng bằng văn bản.
Hình thức hợp đồng bằng lời nói là sự thỏa thuận bằng giữa bên vận chuyển và hành khách về nội dung và hình thức của hợp đồng. Ngược lại, hợp đồng vận chuyển được xác lập bằng lời nói thường được áp dụng khi các bên vận chuyển là những chủ thể nhỏ lẻ, tài sản vận chuyển có giá trị, số lượng ít.
Hình thức hợp đồng bằng hành vi là thông qua hành vi của chính hành khách thể hiện việc xác lập hợp đồng vận chuyển. Các bên thông qua hành vi cụ thể để xác lập, giao kết hợp đồng.
Bên cạnh đó pháp luật cũng ghi nhận vận đơn hoặc chứng từ vận chuyển khác là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng. Tức đó không phải là hợp đồng, mà chỉ đơn thuần là bằng chứng chứng minh hợp đồng đã được giao kết bằng văn bản, lời nói hoặc hành vi. Vận đơn là một loại chứng từ vận tải do người vận chuyển chuyển ký phát sau khi hàng hóa đã được xếp lên tàu hoặc đã được nhận và chờ xếp lên tàu, các loại vận đơn phổ biến như: vận đơn đường biển, vận đơn hàng không, giấy gửi hàng sắt... Trên vận đơn thể hiện các nội dung như: loại tài sản vận chuyển, số lượng, tình trạng tài sản, tên và địa chỉ người nhận, địa điểm xếp dỡ hàng…
Thông thường vận đơn được sử dụng khi chuyên chở hàng hóa quốc tế, vận đơn cùng với những chứng từ vận chuyển khác tương đương có thể chứa đựng các thông tin cơ bản của hợp đồng như địa điểm xếp dỡ hàng; loại tài sản vận chuyển, số lượng, tình trạng; thông tin của người gửi; chữ ký của bên gửi... nhưng không phải là hợp đồng. Bởi hợp đồng là thỏa thuận của bên vận chuyển và bên gửi có xác nhận của hai bên. Trong khi vận đơn và chứng từ vận chuyển khác chỉ là bằng chứng xác nhận hợp đồng được ký kết, trong một số trường hợp còn có thể chuyển giao và chủ thể nào nắm chứng từ này sẽ được nhận hàng, trường hợp xảy ra tranh chấp hợp đồng sẽ được sử dụng làm căn cứ để giải quyết tranh chấp chứ không phải vận đơn hay chứng từ vận chuyển.
Điều 531. Hình thức hợp đồng vận chuyển tài sản
1. Hợp đồng vận chuyển tài sản được giao kết bằng văn bản, bằng lời nói hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
2. Vận đơn hoặc chứng từ vận chuyển tương đương khác là bằng chứng của việc giao kết hợp đồng giữa các bên.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338