Tại Điều 613 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về người thừa kế. Theo đó, người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Theo quy định trên thì người thừa kế là người được hưởng di sản mà người chết để lại theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật. Người thừa kế có thể là người chỉ được hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc chỉ có thể hưởng di sản thừa kế theo pháp luật nhưng có thể là người vừa được hưởng di sản thừa kế theo di chúc vừa được hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.
Việc chia thừa kế được thực hiện dựa trên hai căn cứ là chia theo di chúc của người chết để lại và chia theo pháp luật nếu không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp; pháp luật luôn tôn trọng ý chí, mong muốn của cá nhân vì vậy việc chia di sản sẽ được thực hiện theo di chúc trước sâu đó mới thực hiên chia theo quy định pháp luật; trong trường hợp chia theo di chúc thì người thừa kế có thể là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào hoặc cũng có thể là Nhà nước tùy vào mong muốn của người chết; trong trường hợp chia theo pháp luật thì người thừa kế chỉ có thể là cá nhân, dựa trên quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng mà pháp luật xác định người thừa kế. Bởi bản chất của thừa kế là sự kế quyền của người sống, đối với quyền, nghĩa vụ của người đã khuất, việc truyền lại di sản cho người thùa kế nhằm để người này duy trì, phát triển khối tài sản, do vậy người thừa kế bắt buộc phải đang còn sống đối với cá nhân và đang còn hoạt động đối với tổ chức. Trường hợp cá nhân đã thành thai trước khi mở thừa kế cũng có thể trở thành người thừa kế, vì bản chất của con người là không ngừng vận động, đến một thời điểm trong tương lai khi cá nhân đó được sinh ra sẽ trực tiếp quản lý, phát triển tài sản đó.
Nghĩa vụ tài sản của người thừa kế là những việc mà chủ thể phái làm khi hưởng di sản thừa kế của người chết để lại. Người thừa kế có các nghĩa vụ sau: (1) Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác; (2) Trường hợp di sản chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản do người chết để lại được người quản lý di sản thực hiện theo thỏa thuận của những người thừa kế trong phạm vi di sản do người chết để lại, người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc, hoặc là được những người thừa kế theo pháp luật thỏa thuận cử ra; (3) Trường hợp di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu không có di chúc thì nghĩa vụ các bên là như nhau, nếu có di chúc mà việc chia tài sản không đều nhau thì mỗi người chịu trách nhiệm tương ứng với phần di sản mà mình được hưởng; (4) Trường hợp người thừa kế không phải là cá nhân hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại như người thừa kế là cá nhân. Quy định nghĩa vụ của người thừa kế nhằm bảo vệ quyền lợi cho bên thứ ba, người thừa kế được hưởng lợi từ tài sản người chết để lại, vì vậy phải chịu trách nhiệm cả về nghĩa vụ tài sản của người chết.
Khi được xác định là người thừa kế thì kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có quyền và nghĩa vụ tài sản của người chết để lại. Quyền và nghĩa vụ tài sản của người hưởng thừa kế được xác định tại Điều 615 và Điều 620 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, từ thời điểm mở thừa kế người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ sau đây: (1) Có quyền nhận di sản thừa kế (hoặc theo di chúc hoặc theo pháp luật; hoặc vừa nhận phần theo di chúc, hoặc vừa nhận phần theo pháp luật); (2) Có quyền từ chối nhận di sản, trừ khi việc từ chối này nhằm để trốn tránh nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác; (3) Người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo quy định tại Điều 615. Đối chiếu quy định này thì người hường thừa kế chỉ phải thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại nhưng không vượt quá phần tài sản mà người này nhận được. Tuy nhiên, người thừa kế hoàn toàn có quyền tự nguyện thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại vượt quá phận mà họ được hưởng.
Điều 613. Người thừa kế
Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338