Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết. Quá trình giao kết hợp đồng được diễn ra thông qua hai gia đoạn, đó là giai đoạn đề nghị giao kết hợp đồng và giai đoạn chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên quá trình này có thể là một quá trình thương lượng và thỏa thuận được lặp đi lặp lại nhiều lần. Nên bên đưa ra lời đề nghị ban đầu lại có thể trở thành bên cuối cùng trả lời chấp nhận đề nghị. Do đó, muốn xác định rõ thời điểm trả lời giao kết hợp đồng dân sự thì phải xác định được các dấu hiệu cơ bản của một lời đề nghị giao kết hợp đồng cũng như chấp nhận giao kết hợp đồng.
Tại Điều 400 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thời điểm giao kết hợp đồng. Theo đó, thời điểm giao kết hợp đồng được xác định như sau:
Thứ nhất, hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.
Thứ hai, trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó.
Thứ ba, thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.
Thứ tư, thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
Lưu ý: Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo khoản 3 Điều 400.
Theo đó, thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm kết thúc quá trình thỏa thuận, đồng nghĩa với việc tại thời điểm này, các bên đã đạt được sự thống nhất về nội dung thỏa thuận ghi trong hợp đồng. Như vậy, đây là thời điểm sự thỏa thuận của các bên có giá trị pháp lý, hợp đồng phát sinh hiệu lực pháp luật. Với mỗi hình thức giao kết khác nhau thì thời điểm giao kết hợp đồng lại được quy định khác nhau. Cụ thể:
Thời điểm giao kết bằng lời nói, thời điểm các bên đã thoả thuận về nội dung hợp đồng, nếu hai bên chỉ thực hiện giao dịch, hợp đồng bằng lời nói thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên đã chấp nhận giao kết hợp đồng và bàn bạc, thoả thuận các nội dung trong hợp đồng. Nếu hợp đồng được giao kết bằng lời nói, thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm các bên thỏa thuận về nội dung của hợp đồng. Khi giao kết hợp đồng bằng lời nói, bên được đề nghị không cần phải gửi thông báo cho bên đề nghị biết về việc chấp nhận giao kết hợp đồng bằng các phương tiện khác nữa, mà trực tiếp chấp nhận thông qua lời nói. Do đó, nếu các bên có thỏa thuận về nội dung hợp đồng thì đồng nghĩa với việc bên được đề nghị đã chấp nhận giao kết hợp đồng.
Thời điểm giao kết bằng văn bản, thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hoặc hình thức khác được thể hiện trên văn bản. Nếu giao kết hợp đồng được thực hiện bằng văn bản, thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản, hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản như: điểm chỉ, đóng dấu… Mọi thỏa thuận của hai bên được thực hiện thông qua hình thức văn bản, do đó sự thể hiện ý chí của các bên cũng được thể hiện qua văn bản. Hành vi cả hai bên ký vào văn bản, hay xác nhận đóng dấu… là cơ sở chứng minh hai bên đã đồng ý giao kết hợp đồng với nhau. Do đó, thời điểm giao kết hợp đồng cũng được xác định theo thời điểm này.
Thời điểm giao kết hợp đồng nếu hai bên thoả thuận im lặng, là sự chấp nhận giao kết trong một thời hạn: Thời điểm giao kết là thời điểm cuối cùng của thời hạn này. Khoản 2 Điều 393 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định sự im lặng được xem là đồng ý nếu các bên có thỏa thuận. Do đó, hợp đồng có thể được giao kết dựa trên sự im lặng của bên được đề nghị. Theo đó, nếu bên được đề nghị im lặng khi nhận được giao kết hợp đồng trong thời hạn mà các bên đã thỏa thuận, thì thời điểm cuối cùng của thời hạn đó chính là thời điểm giao kết hợp đồng. Bởi vì trong thời hạn đó, bên được đề nghị có thể trả lời không chấp nhận nếu không muốn giao kết giao kết hợp đồng, chính vì vậy chỉ khi vào thời điểm cuối cùng mà bên được đề nghị vẫn giữ im lặng, thì mặc nhiên đó là câu trả lời chấp nhận theo thỏa thuận của hai bên từ trước và cũng là căn cứ xác định thời điểm giao kết hợp đồng trong trường hợp này.
Thời điểm giao kết bằng lời nói sau đó xác lập bằng văn bản, thời điểm giao kết hợp đồng như trường hợp giao kết bằng lời nói ở trên. Nếu hợp đồng giao kết bằng lời nói, sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo thời điểm các bên thỏa thuận về nội dung của hợp đồng, tức xác định theo hình thức bằng lời nói. Vì tại thời điểm đó, các bên đề đã chấp nhận giao kết hợp đồng và thỏa thuận xong những nội dung cơ bản của hợp đồng. Việc xác lập văn bản sau đó là kết quả dựa dựa trên những gì mà các bên đã thỏa thuận bằng lời nói, hay nói cách khác đó là sự ghi nhận lại trên giấy những nội dung đã được hình thành từ trước.
Điều 400. Thời điểm giao kết hợp đồng
1. Hợp đồng được giao kết vào thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận giao kết.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng trong một thời hạn thì thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm cuối cùng của thời hạn đó.
3. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng.
4. Thời điểm giao kết hợp đồng bằng văn bản là thời điểm bên sau cùng ký vào văn bản hay bằng hình thức chấp nhận khác được thể hiện trên văn bản.
Trường hợp hợp đồng giao kết bằng lời nói và sau đó được xác lập bằng văn bản thì thời điểm giao kết hợp đồng được xác định theo khoản 3 Điều này.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338