Language:
Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình (Điều 185)
13/04/2023
icon-zalo

Luật sư Nguyễn Văn Đồng

Luật sư Hà Thị Khuyên

 

Tội phạm này vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ có tính đạo lý giữa những người thân trong gia đình và đã được luật hóa thành nghĩa vụ pháp lý trong luật hôn nhân và gia đình, đồng thời hành vi này còn trực tiếp xâm phạm sức khỏe và phẩm giá của nạn nhân. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích cấu thành của Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình quy định tại Điều 185 Bộ luật Hình sự năm 2015.

 

Chủ thể của tội phạm:

 

Chủ thể tội phạm quy định tại Điều luật này là bất kỳ người nào có năng lực trách nhiệm hình sự, đồng thời phải là người có quan hệ hôn nhân (vợ, chồng) hoặc quan hệ gia đình (cha mẹ, con, cháu) hoặc quan hệ nuôi dưỡng đối với người bị hại.

 

Khách thể của tội phạm:

 

Cả hành vi ngược đãi và hành hạ quy định tại Điều luật này, tội phạm đều xâm phạm đến quan hệ gia đình, xâm phạm thuần phong, mỹ tục trong quan hệ gia đình truyền thông ngoài ra còn xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, sức khoẻ của người bị hại.

 

Mặt chủ quan của tội phạm:

 

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình xâm hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người thân của chính mình và mong muốn thực hiện hành vi đó; hơn thế nữa, người phạm tội còn có thái độ chống đối pháp luật, thể hiện ở việc mặc dù biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật hôn nhân và gia đình, thậm chí đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này nhưng vẫn cố ý tiếp tục thực hiện hành vi ngược đãi hoặc hành hạ người thân của mình. Các dấu hiệu về động cơ, mục đích phạm tội không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

 

Mặt khách quan của tội phạm:

 

(1) Về hành vi ngược đãi:

 

Đối với tội ngược đãi nghiêm trọng ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng, mặt khách quan được thể hiện qua các dấu hiệu như có hành vi đối xử tồi tệ về mọi mặt đối với người bị hại như:

 

- Về ăn uống: Cho ăn một cách bẩn thỉu (các vật dụng như bát đũa và thức ăn. trong tình trạng mất vệ sinh và thiếu thốn. Ví dụ: Chỉ đổ cơm nguội vào đĩa, bát bẩn thỉu cho ăn mà không có đũa, thìa).

 

- Về chỗ ở: Xếp cho ở nơi hết sức tồi tàn thậm chí không có chăn, màn, giường, chiếu.

 

- Về mặc: Cho mặc rách rưới, thiếu vệ sinh.

 

- Về sinh hoạt khác: Không cho tắm rửa thường xuyên.

 

Việc đối xử như nêu trên phải được thể hiện một cách rõ ràng trái ngược so với điều kiện sống của gia đình họ (như có đầy đủ chỗ ở tốt nhưng lại đưa ra cho ở chuồng ngựa…). Hành vi nói trên phải ở mức độ được xem là nghiêm trọng, nghĩa là hành vi đó phải diễn ra thường xuyên có hệ thông làm cho người bị hại luôn bị dày vò, khủng hoảng, đau đớn về thể xác, tinh thần, từ đó ảnh hưởng đến sức khoẻ.

 

Về người bị hại cần chú ý: Ông bà gồm cả ông bà nội, ông bà ngoại; Cha mẹ gồm cả cha, mẹ đẻ và cha nuôi, mẹ nuôi và cả cha mẹ vợ hoặc cha mẹ chồng; Con gồm cả con đẻ, con nuôi, con riêng của chồng hoặc của vợ (kể cả con ngoài giá thú); Vợ chồng gồm vợ chồng có kết hôn hợp pháp hoặc là trường hợp được xác định là hôn nhân thực tế; Cháu gồm cháu nội, cháu ngoại của người phạm tội, cháu gọi người phạm tội bằng cô, chú, bác, dì, cậu; Người có công nuôi dưỡng là người không có các mối quan hệ như nêu trên với người phạm tội, nhưng đã có công nuôi nấng người phạm tội.

 

(2) Về hành vi hành hạ:

 

Đối với tội hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng, mặt khách quan được thể hiện qua dấu hiệu sau đây: Có hành vi đối xử tàn ác đối với người bị hại như đánh đập, giam hãm, không cho ra khỏi nhà, bắt nhịn ăn… có thể kèm theo việc chửi mắng thậm tệ làm cho họ bị đau đớn về thể xác lẫn tinh thần.

 

Tuy nhiên, việc đối xử tàn ác không chủ ý gây thương tích hoặc chỉ gây thương tích nhẹ chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự (nếu hành vi gây thương tích đến mức độ nhất định đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích).

 

Hành vi nêu trên phải gây hậu quả nghiêm trọng hoặc thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Đây là dấu hiệu cấu thành cơ bản của tội này.

 

Gây hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho người bị hại đau khổ tự sát hoặc suy kiệt sức khoẻ nghiêm trọng, gây dư luận bất bình trong nhân dân.

 

Lưu ý: Trường hợp chưa được công nhận là hôn nhân hợp pháp, thì hành vi ngược đãi, hành hạ giữa với nhau, giữa cha mẹ với con cái đều không là chủ thể của tội này mà tuỳ từng trường hợp có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội tương ứng. Trong trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì chỉ cần người có hành vi vi phạm đúng với hành vi mà trước đó họ đã vi phạm và bị xử phạt hành chính thì được xem là tội phạm hoàn thành. Đối với cấu thành tội phạm đòi hỏi phải gây hậu quả nghiêm trọng thì tội phạm hoàn thành kể từ khi hậu quả nghiêm trọng đã xảy ra. Nếu hậu quả nghiêm trọng chưa xảy ra thì không cấu thành tội này.

 

Hình phạt:

 

- Khung 1: Phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với những hành vi: Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần; Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

 

- Khung 2: Phạt tù từ 02 năm đến 05 năm với những hành vi: Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu; Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo.

 

Điều 185. Tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình

1. Người nào đối xử tồi tệ hoặc có hành vi bạo lực xâm phạm thân thể ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu hoặc người có công nuôi dưỡng mình thuộc một trong những trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Thường xuyên làm cho nạn nhân bị đau đớn về thể xác, tinh thần;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 05 năm:

a) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu;

b) Đối với người khuyết tật nặng, khuyết tật đặc biệt nặng hoặc người mắc bệnh hiểm nghèo.

 

Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338