Language:
Cơ sở của trách nhiệm hình sự (Điều 2)
24/11/2023
icon-zalo

Luật sư Hà Thị Khuyên

Luật sư Nguyễn Văn Đồng

Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật Hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích về "Cơ sở của trách nhiệm hình sự" quy định tại Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 2015 xác định cơ sở pháp lý của trách nhiệm hình sự và qua đó thể hiện nguyên tắc pháp chế là nguyên tắc cơ bản của luật hình sự nói riêng cũng như của hệ thống pháp luật nói chung. Theo điều luật này thì trách nhiệm hình sự có thể là trách nhiệm hình sự của cá nhân người phạm tội hoặc trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Trong đó, trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại mới được luật hình sự Việt Nam thừa nhận và được bổ sung trong Bộ luật Hình sự.

Khoản 1 Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 2015 là sự thừa nhận nguyên tắc đã được ghi trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền của Liên Hợp Quốc. Như vậy, theo luật hình sự Việt Nam, tội phạm phải được quy định trong Bộ luật Hình sự và một người chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự nói chung cũng như hình phạt nói riêng về tội phạm đã được quy định trong luật Bộ luật Hình sự mà họ đã thực hiện. Theo đó, không thể buộc một người phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi họ đã thực hiện mà hành vi đó không được quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm hoặc chỉ được quy định  là tội phạm sau khi họ đã thực hiện hành vi đó. Điều này có nghĩa, luật hình sự Việt Nam không chỉ cấm nguyên tắc tương tự (xét xử một người vì hành vi của họ tuy chưa được quy định trong luật là tội phạm nhưng hành vi đó tương tự với hành vi khác đã được quy định trong luật là tội phạm) mà cấm cả nguyên tắc hồi tố (xét xử một người về hành vi họ đã thực hiện trước khi hành vi đó được quy định trong luật là tội phạm).

Một người được coi là phạm một tội đã đượBộ luật hình sự quđịnh” khi người đó đã thực hiện hành vi phạm tội được mô tả tại điều luật quy định về tội danh cụ thể trong Phần thứ hai của Bộ luật Hình sự như hành vi được mô tả tại Điều 168 Bộ luật Hình sự quy định về tội cướp tài sản hoặc tại Điều 188 Bộ luật Hình sự quy định về Tội buôn lậu. Họ có thể thực hiện trọn vẹn hành vi phạm tội được mô tả hoặc không thực hiện được trọn hành vi đó do nguyên nhân ngoài ý muốn. Cũng được coi là phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định” khi một người có hành vi tổ chức, xúi giục hoặc giúp sức người khác thực hiện hành vi (cố ý) được mô tả nêu trên. Nói cách khác, bị coi là phạm một tội đã đượBộ luật hình sự quy địnhcó thể là trường hợp chỉ có một người nhưng cũng có thể là trường hợp có nhiều người cùng thực hiện dưới hình thức đồng phạm. Ngoài ra, trong trường hợp nhất định, người mới có hành vi chuẩn bị cho việc thực hiện hành vi (cố ý) được mô tả nêu trên cũng được coi là người phạm một tội đã được Bộ luật hìnsự quy định.

Khoản 2 Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 2015 là nội dung mới so với Bộ luật Hình sự năm 1999. Khoản này được bổ sung để xác định cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với chủ thể thứ hai của trách nhiệm hình sự là pháp nhân thương mại. Cụ thể, quy định tại khoản 2 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định cụ thể như sau: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạmộtội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật Hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Nội dung quy định này có thể được hiểu theo 02 cách khác nhau:

Cách hiểu thứ nhất, theo cách hiểu này, có tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện theo quy định tại khoản 2 của điều luật) bên cạnh tội phạm do cá nhân thực hiện theo quy định tại khoản 1 của điều luật) và như vậy sẽ có pháp nhân thương mại phạm tội bên cạnh người phạm tội. Khác với cá nhân, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội được liệt kê tại Điều 76 Bộ luật Hình sự mà pháp nhân thương mại đã thực hiện. Cách hiểu này tuy thống nhất theo cách hiểu của khoản 1 nhưng lại thể hiện nội dung của khoản có sự mâu thuẫn với Điều 75 Bộ luật Hình sự. Theo Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015, thì pháp nhân thương mại không thực hiện tội phạm mà chủ thể khác đã thực hiện và pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn các điều kiện được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015, nội dung của điều kiện này thể hiện pháp nhân thương mại không thực hiện tội phạm. Như vậy, thực tế chỉ có tội phạm do cá nhân thực hiện và có 02 chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đó Cá nhân phải chịu trách nhiệm hình sự là do đã thực hiện tội phạm đã được Bộ luật Hình sự quy định (theo khoản 1 của Điều luật) còn pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm được xác định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự là do thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 75 Bộ luật Hình sự.

Cách hiểu thứ hai, theo cách hiểu này, pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội được xác định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự khi thỏa mãn các điều kiện bị coi là “phạm một tội” được quy định tại Điều 75. Cách hiểu này dựa trên quan niệm cho rằng, tội phạm là do cá nhân thực hiện nhưng pháp nhân thương mại cũng có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm cùng với cá nhân khi thỏa mãn các điều kiện được Bộ luật Hình sự quy định và khi đó pháp nhân thương mại cũng bị coi là đã phạm tội. Cách hiểu này tuy không thống nhất theo cách hiểu của khoản 1 nhưng lại phù hợp với nội dung của Điều 75 Bộ luật Hình sự là điều luật quan trọng nhất quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại. Theo đó, sẽ không có pháp nhân thương mại phạm tội theo nghĩa đã thực hiện tội phạm bên cạnh tội phạm do cá nhân thực hiện mà chỉ có pháp nhân thương mại bị coi là phạm tội và phải chịu trách nhiệm hình sự.

Như vậy, cơ sở của trách nhiệm hình sự đối với cá nhân là việc thực hiện hành vi đã được quy định trong Bộ luật Hình sự là tội phạm còn đối với pháp nhân thương mại, cơ sở của trách nhiệm hình sự là mối quan hệ “đặc biệt” giữa pháp nhân thương mại với hành vi phạm tội cũng như với người đã thực hiện hành vi phạm tội đó. Tội phạm chỉ có thể được thực hiện bởi cá nhân và pháp nhân thương mại có thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm đó mà không có tội phạm khác được thực hiện bởi pháp nhân thương mại. Đây là nguyên tắc trách nhiệm hình sự kép theo nghĩa cả 02 chủ thể cùng phải chịu trách nhiệm hình sự về một tội phạm được thực hiện. Pháp nhân thương mại không thể là chủ thể thực hiện tội phạm mà chỉ có thể là chủ thể phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm do cá nhân (người) thực hiện. Do vậy, chỉ có thể có pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự mà không có pháp nhân thương mại phạm tội theo đúng nghĩa.

Theo đó khoản 2 Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự” cần được hiểu là: “Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm được xác định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự khi thỏa mãn các điều kiện được quy định tại Điều 75 Bộ luật Hình sự”. Nếu không hiểu theo nghĩa như vậy, chúng ta sẽ thấy khẳng định tại khoản 2 Điều 2 Bộ luật Hình sự chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 Bộ luật Hình sự mới phải chịu trách nhiệm hình sự mâu thuẫn với khẳng định tại Điều 75 Bộ luật Hình sự quy đinh pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi… Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại…”.

Với 2 cách hiểu như vậy, nội dung quy định tại khoản 2 của Điều 2 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã tạo ra sự hiểu nhầm là có hai hệ thống tội phạm tội phạm do cá nhân thực hiện và tội phạm do pháp nhân thương mại thực hiện. Từ đó dẫn đến sự không thống nhất trong các quy định của Bộ luật Hình sự về vấn đề này. Trong các quy định thuộc Phần chung có quy định thể hiện có 2 hệ thống tội phạm nhưng cũng có nhiều quy định chỉ có nội dung về tội phạm do cá nhân thực hiện. Tương tự như vậy, ở một số điều luật thuộc Phần các tội phạm cũng có sự mâu thuẫn này ngay trong cùng điều luật. Sự không thống nhất này có thể do một số quy định liên quan đến pháp nhân thương mại như quy định tại khoản 2 Điều 2 Bộ luật Hình sự đã được sao chép cơ học từ các quy định về người phạm tội tương ứng mặc dù 2 chủ thể này cũng như nội dung quy định liên quan đến 2 chủ thể này đều có sự khác nhau.

Như vậy, để đảm bảo tính chính xác cũng như tính thống nhất của Bộ luật Hình sự, cần phải hiểu khoản 2 Điều 2 Bộ luật Hình sự theo cách hiểu thứ hai. Đây là cách hiểu phù hợp với thực tiễn lập pháp của nhiều quốc gia trên thế giới và cũng phù hợp với phần lớn các quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, đặc biệt là phù hợp với Điều 75 Bộ luật Hình sự là điều luật cốt lõi về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại.

Điều 2. Cơ sở của trách nhiệm hình sự

1. Chỉ người nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

2. Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự.

Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338

Tags
Cơ sở của trách nhiệm hình sự Người phạm tội pháp nhân thương mại phạm tội Người nào phạm tội đã được quy định tại bộ luật hình sự Phải chịu trách nhiệm hình sự Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội Điều 76 Bộ luật hình sự năm 2015 Trách nhiệm hình sự hình sự Điều 2 Bộ luật hình sự năm 2015 Dịch vụ luật sư Dịch vụ pháp lý Đoàn luật sư Hà Nội Liên đoàn luật sư Việt Nam luật sư Đồng luật sư nguyễn văn đồng luật sư khuyên luật sư hà thị khuyên Nhân chính Nhanchinh.vn Luật Nhân Chính Văn phòng Luật sư Nhân Chính Tư vấn luật Tư vấn pháp luật Tìm luật sư giỏi luật sư luật sư giỏi Luật sư tại Hà Nội Luật sư uy tín Luật sư Quận Thanh Xuân Luật sư Hà Nội luật sư việt nam luật sư tranh tụng Luật sư tố tụng Luật sư tư vấn Luật sư giải quyết tranh chấp luật sư bào chữa Luật sư hình sự Luật sư dân sự Luật sư giải quyết án hành chính Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp Luật sư đất đai Luật sư tư vấn đất đai Luật sư nhà đất Luật sư thừa kế Luật sư Ly hôn Luật sư hôn nhân và gia đình Luật sư thu hồi nợ Luật sư kinh doanh thương mại Luật sư doanh nghiệp Luật sư sở hữu trí tuệ luật sư lao động Luật sư nổi tiếng Luật sư hòa giải luật sư đối thoại Văn phòng luật Văn phòng luật sư Văn phòng luật sư uy tín Văn phòng luật sư gần nhất Văn phòng luật sư Hà Nội Văn phòng luật sư uy tín tại Hà Nội Công ty luật Tổ chức hành nghề luật sư 0983951338 0936683699