Language:
Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán (Điều 210)
02/05/2023
icon-zalo

Luật sư Hà Thị Khuyên

Luật sư Nguyễn Văn Đồng

 

Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán quy định tại Điều 210 Bộ luật Hình sự năm 2015 xâm phạm đến quy định về quản lý chứng khoán của Nhà nước, và xâm phạm lợi ích hợp pháp của công ty đại chúng, quỹ đại chúng. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích cấu thành của Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán quy định tại Điều 210 Bộ luật Hình sự năm 2015.

 

Chủ thể của tội phạm:

 

Chủ thể của Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán chỉ có thể là những người biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố như thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc, Tổng giám đốc, Phó giám đốc, Phó tổng giám đốc của công ty đại chúng, thành viên Ban đại diện quỹ đại chúng... Chủ thể của tội này cũng có thể là pháp nhân thương mại đủ điều kiện chịu trách nhiệm hình sự theo Điều 75 Bộ luật Hình sự năm 2015.

 

Khách thể của tội phạm:

 

Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán quy định tại Điều 210 Bộ luật Hình sự năm 2015 xâm phạm đến quy định về quản lý chứng khoán của Nhà nước, và xâm phạm lợi ích hợp pháp của công ty đại chúng, quỹ đại chúng.

 

Mặt chủ quan của tội phạm:

 

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, mặc dù điều luật chỉ quy định “biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố”, nhưng để biết được thông tin nội bộ, người phạm tội có thể tự mình hoặc thông qua người khác để biết, thậm chí “mua thông tin” liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố để mua bán chứng khoán.

 

Mục đích là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này, bởi vì một người sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ cho người khác hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán không bao giờ không nhằm một mục đích nhất định. Thông thường, người phạm tội chủ yếu nhằm mục đích kiếm được lợi nhuận. Chính vì vậy, nhà làm luật quy định tình tiết thu lợi bất chính là dấu hiệu định tội. Tuy nhiên, ngoài thu lợi bất chính, người phạm tội còn có mục đích khác, nên nhà làm luật quy định tình tiết “hoặc gây thiệt hại cho nhà đầu tư” là dấu hiệu định tội, nếu người phạm tội chưa thu lợi bất chính.

 

Người phạm tội có thể vì động cơ khác nhau như: Vì nể nang, vì mối quan hệ lệ thuộc, nhưng chủ yếu là vì động cơ vụ lợi.

 

Mặt khách quan của tội phạm:

 

Người phạm tội có thể thực hiện một hoặc các hành vi như: Sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ cho người khác hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông tin nội bộ của công ty mình.

 

Sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán là việc phân tích, tổng hợp các dữ liệu, tài liệu đã biết để mua hoặc bán chứng khoán nhằm thu lời.

 

Tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ cho người khác mua bán chứng khoán là hành vi nói, giới thiệu, cho người khác ghi chép, sao chụp... các thông tin nội bộ hoặc không thực hiện các quy định về quản lý, bảo quản cất giữ… tài liệu về thông tin nội bộ để người khác biết các nội dung về thông tin nội bộ.

 

Tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán là việc dùng lời nói khuyên bảo, thuyết phục người khác để họ mua bán chứng khoán.

 

Mua bán chứng khoán là hành vi giao dịch bằng lệnh giao dịch chứng khoán gồm: Lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh xác định giá mở cửa (ATO); lệnh giới hạn (LO); lệnh thị trường trên sàn HSX (MP); lệnh thị trường trên sàn HNX; lệnh điều kiện (lệnh chờ); lệnh giao dịch tại mức giá khớp lệnh xác định giá đóng cửa (ATC); lệnh khớp lệnh sau giờ (PLO). Ví dụ: Lệnh giới hạn (LO) là lệnh mua hoặc lệnh bán chứng khoán tại một mức giá xác định hoặc tốt hơn. Lệnh có hiệu lực kể từ khi được nhập vào hệ thống giao dịch cho đến hết ngày giao dịch hoặc cho đến khi lệnh bị hủy bỏ. Hành vi mua bán chứng khoán nhất thiết phải bằng lệnh, còn đặt lệnh nào là tùy thuộc vào nhà đầu tư, chứ không bắt buộc người mua, bán chứng khoán phải đặt hết các loại lệnh; mỗi loại lệnh có quy định riêng để người mua, bán chứng khoán lựa chọn sao cho có lợi.

 

Điều luật quy định nhiều hành vi phạm tội khác nhau, nhưng đều là hành vi “sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán”, vì vậy khi xác định tội danh của người phạm tội cần chú ý:

 

Một, nếu người phạm tội thực hiện hành vi nào thì xác định theo hành vi đó. Ví dụ: Người phạm tội chỉ tiết lộ thông tin nội bộ cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông nội bộ của công ty, thì chỉ xác định hành vi của người phạm tội là hành vi tiết lộ thông tin nội bộ cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông nội bộ của công ty, nhưng tội danh vẫn là tội “Sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán”.

 

Hai, nếu người phạm tội thực hiện tất cả các hành vi quy định tại khoản 1 của điều luật thì khi xác định các hành vi phạm tội thay từ “hoặc” bằng kết từ “và”, vì nếu để từ “hoặc” thì cũng đồng nghĩa không biết người phạm tội thực hiện hành vi nào.

 

Hậu quả: Hậu quả của tội phạm này vừa là dấu hiệu bắt buộc, vừa không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm.

 

Là dấu hiệu bắt buộc nếu chưa thu lợi bất chính từ 300.000.000 đồng, thì phải gây ra thiệt hại cho nhà đầu tư từ 500.000.000 đồng thì hành vi mới cấu thành tội phạm.

 

Không phải là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội đã thu lợi bất chính từ 300.000.000 đồng, mặc dù chưa gây ra hậu quả cho nhà đầu tư, thì vẫn cấu thành tội phạm.

 

Nếu hành vi của người phạm tội chưa cấu thành tội phạm thì có thể chỉ bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính.

 

Các dấu hiệu khách quan khác, ngoài hành vi và hậu quả thì nhà làm luật còn quy định các dấu hiệu khách quan khác, mà nếu thiếu nó thì vẫn chưa cấu thành tội phạm như: thông tin nội bộ và phải có việc mua bán chứng khoán.

 

Nếu các thông tin nội bộ không liên quan đến hoạt động chứng khoán như: biên chế của công ty, lý lịch của cán bộ trong công ty… cũng là những thông tin được giữ bí mật, nhưng các thông tin này không liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng của công ty, thì không thuộc trường hợp điều chỉnh của tội phạm này, mà tùy trường hợp người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Cố ý làm lộ bí mật Nhà nước, chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy vật hoặc tài liệu bí mật Nhà nước" quy định tại Điều 337 Bộ luật Hình sự hoặc tội "Cố ý làm lộ bí mật công tác"; tội "Chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác" quy định tại Điều 361 Bộ luật Hình sự.

 

Hình phạt:

 

- Khoản 1: Phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm đối với người nào biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó mà sử dụng thông tin này để mua bán chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông tin này, thu lợi bất chính từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho nhà đầu tư từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng.

 

- Khoản 2: Phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm thuộc các trường hợp phạm tội có tổ chức; thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên; gây thiệt hại cho nhà đầu tư 1.500.000.000 đồng trở lên; tái phạm nguy hiểm.

 

- Khoản 3 - Hình phạt bổ sung: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

 

- Khoản 4: Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau: Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng; Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 5.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng;Pháp nhân thương mại còn có thể bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

 

Điều 210. Tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán

1. Người nào biết được thông tin liên quan đến công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng chưa được công bố mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của công ty đại chúng hoặc quỹ đại chúng đó mà sử dụng thông tin này để mua bán chứng khoán hoặc tiết lộ, cung cấp thông tin này hoặc tư vấn cho người khác mua bán chứng khoán trên cơ sở thông tin này, thu lợi bất chính từ 300.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho nhà đầu tư từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 500.000.000 đồng đến 2.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 2.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Thu lợi bất chính 1.000.000.000 đồng trở lên;

c) Gây thiệt hại cho nhà đầu tư 1.500.000.000 đồng trở lên;

d) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

4. Pháp nhân thương mại phạm tội quy định tại Điều này, thì bị phạt như sau:

a) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 5.000.000.000 đồng;

b) Phạm tội thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, thì bị phạt tiền từ 5.000.000.000 đồng đến 10.000.000.000 đồng;

c) Pháp nhân thương mại còn có thể bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định hoặc cấm huy động vốn từ 01 năm đến 03 năm.

 

Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338