Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Luật sư Hà Thị Khuyên
Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được quy định là hành vi của người có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp vì thiếu trách nhiệm mà gây thiệt hại tài sản từ 100 triệu đồng trở lên do để tài sản bị mất mát, hư hỏng, sử dụng lãng phí. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích cấu thành của Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp quy định tại Điều 179 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Chủ thể của tội phạm:
Chủ thể của tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp quy định tại tất cả các khoản 1, 2 và 3 Điều 179 Bộ luật Hình sự năm 2015 là người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Khách thể của tội phạm:
Khách thể của tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Đối tượng tác động của tội phạm này là tài sản của nhà nước,cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp bao gồm vật, tiền.
Mặt chủ quan của tội phạm:
Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp được thực hiện do lỗi vô ý. Dưới hình thức "lỗi vô ý do quá tự tin", người phạm tội tuy thấy trước hành vi thiếu trách nhiệm của mình làm mất mát, hư hỏng, lãng phí có thể gây ra thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp từ 100.000.000 đồng trở lên nhưng cho rằng hậu quả đó sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Còn dưới hình thức "lỗi vô ý do cẩu thả", người phạm tội không thấy trước hành vi thiếu trách nhiệm của mình làm mất mát, hư hỏng, lãng phí có thể gây ra thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp từ 100.000.000 đồng trở lên, mặc dù phải thấy trước và có thể thấy trước hậu quả đó.
Mặt khách quan của tội phạm:
Hành vi thuộc mặt khách quan của tội phạm là hành vi thiếu trách nhiệm mất mát, hư hỏng, lãng phí gây thiệt hại cho tài sản. Cụ thể:
"Thiếu trách nhiệm" là hành vi của người có trách nhiệm (không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ) vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng, bảo vệ tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp. Những quy định đó có thể là quy định thuộc lĩnh vực kinh tế, tài chính, những quy định về ghi sổ, thu, chi, thanh toán… hoặc là quy định về kỹ thuật như quy tắc bảo dưỡng, vận hành…sử dụng máy móc, trang thiết bị...;
"Mất mát tài sản" là để cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp thoát khỏi sự kiểm soát, quản lý của người có trách nhiệm trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước. Cũng được xem là mất mát nếu tài sản đó bị huỷ hoại mà không thể sử dụng lại được.
"Hư hỏng tài sản" là làm cho tài sản của Nhà nước bị thiệt hại, hỏng hóc mà muốn sử dụng, khai thác được thì phải đi sửa chữa.
"Lãng phí tài sản" là sử dụng, khai thác tài sản một cách tuỳ tiện, bừa bãi không tiết kiệm, không mang lại hiệu quả.
Hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các quy định về quản lý, sử dụng, bảo vệ tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp từ 100.000.000 đồng trở lên. Theo quy định tại Điều 179 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì các hành vi nêu trên gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 179.
Đây là tội có cấu thành vật chất, vì vậy hành vi thiếu trách nhiệm để mất mát, hư hỏng, lãng phí nói trên chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hậu quả của tội phạm xảy ra. Hậu quả của tội phạm là gây thiệt hại về tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp có giá trị từ 100.000.000 đồng trở lên, ngoài ra không còn thiệt hại nào khác.
Thiệt hại về tài sản phải do chính hành vi thiếu trách nhiệm gây ra mới là hậu quả của tội phạm này, nếu thiệt hại đó không phải do hành vi thiếu trách nhiệm gây ra thì không được tính để xác định hậu quả của tội phạm này.
Hinh phạt:
- Khung 1: Quy định hình phạt cảnh cáo hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm áp dụng đối với người phạm tội không có tình tiết tăng nặng định khung hình phạt.
- Khung 2: Quy định hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm áp dụng đối với người phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng.
- Khung 3: Quy định hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm áp dụng đối với người phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trị giá 2.000.000.000 đồng trở lên.
Hình phạt bổ sung: Được quy định tại khoản 4 Điều 179 Bộ luật Hình sự năm 2015 là người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Điều 179. Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp
1. Người nào có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, vì thiếu trách nhiệm mà để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
2. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 2.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
3. Phạm tội gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp trị giá 2.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338