Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù có ý nghĩa lớn, được thực hiện hằng năm nhân các ngày lễ lớn của đất nước là công cụ pháp lý giúp Nhà nước đánh giá hiệu quả công tác tổ chức thi hành án phạt tù, công tác quản lý, giáo dục phạm nhân, tạo động lực cho phạm nhân phấn đấu, cải tạo để có cơ hội được nhanh chóng tái hòa nhập cộng đồng, sớm trở về với gia đình, xã hội. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích quy định về "Giảm mức hình phạt đã tuyên" tại Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong các trường hợp bình thường. Còn việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt trong trường hợp đặc biệt được quy định tại Điều 64 Bộ luật Hình sự .
Như vậy, tên gọi giảm mức hình phạt đã tuyên là chưa thực sự phù hợp với nội dung quy định của điều luật. Các điều luật của Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về giảm thời hạn chấp hành hình phạt là nhằm mục đích khuyến khích người bị kết án chấp hành nghiêm hình phạt và tích cực cải tạo.
Khoản 1 Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định các điều kiện để được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt đối với người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân. Để được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, đòi hỏi người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân phải thỏa mãn các điều kiện sau:
- Điều kiện về thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là: Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn đã chấp hành được 1/3 thời hạn; Người bị kết án phạt tù chung thân đã chấp hành được 12 năm (trừ trường hợp được quy định tại khoản 3 của điều luật).
- Điều kiện về cải tạo: Người bị kết án có nhiều tiến bộ trong thời gian đã chấp hành hình phạt, thể hiện qua việc chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, thành thật hối cải, tích cực lao động và học tập, nghiêm chỉnh chấp hành chế độ cải tạo không giam giữ hoặc chế độ, nội quy của trại cải tạo.
- Điều kiện về bồi thường nghĩa vụ dân sự: Người bị kết án đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự.
Khi người bị kết án thỏa mãn các điều kiện trên và có đề nghị của cơ quan có thẩm quyền (cơ quan, tổ chức hoặc chính quyền địa phương được giao trách nhiệm giám sát, giáo dục đối với người đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ hoặc cơ quan thi hành án phạt tù đối với người đang chấp hành hình phạt tù) thì Tòa án quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt cho người bị kết án.
Khoản 2 Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về thời hạn được giảm. Theo đó, người bị kết án có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải đảm bảo chấp hành được 1/2 mức hình phạt đã tuyên. Điều đó có nghĩa người bị kết án chỉ được giảm thời hạn chấp hành hình phạt (của nhiều lần cộng lại) tối đa bằng 1/2 mức hình phạt đã tuyên.
Quy định này là cho người bị kết án cải tạo không giam giữ và phạt tù có thời hạn. Riêng đối với người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải đảm bảo thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm. Như vậy, khoản 2 của điều luật chỉ quy định về giới hạn giảm trong tổng thể mà không quy định mức giảm của mỗi lần xét giảm. Nội dung này đã được hướng dẫn cụ thể trong các văn bản hướng dẫn áp dụng quy định điều luật tương tự của Bộ luật Hình sự năm 1999 (Điều 58). Theo đó, người chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ mỗi năm được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt một lần, mỗi lần có thể giảm từ ba tháng đến chín tháng.
Còn đối với người bị kết án phạt tù từ 30 năm trở xuống thì mỗi lần có thể xét giảm từ ba tháng đến ba năm; trường hợp được giảm ba năm phải là người bị kết án phạt tù có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động, cải tạo và chấp hành nghiêm chỉnh nội quy của trại giam. Thông thường, người bị kết án cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù có thời hạn chỉ được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt mỗi năm một lần;
Trong trường hợp trong năm đó, sau khi được giảm thời hạn chấp hành hình phạt mà có lý do đặc biệt đáng được khoan hồng như lập công mới hoặc bị mắc bệnh hiểm nghèo thì có thể được xét giảm tiếp nhưng tối đa là hai lần trong một năm.
Khoản 3 Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt cho người bị kết án về nhiều tội mà trong đó có tội bị áp dụng hình phạt tù chung thân. Theo đó, Tòa án chỉ xét giảm lần đầu cho người bị kết án xuống 30 năm tù sau khi người đó đã chấp hành hình phạt được 15 năm tù và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải đảm bảo thời gian thực tế chấp hành là 25 năm.
So với trường hợp bình thường được quy định tại khoản 1 và khoản 2, trường hợp này có điều kiện xét giảm lần đầu (đã chấp hành hình phạt được 15 năm tù) cao hơn và thời hạn thực tế phải chấp hành (là 25 năm) cũng cao hơn vì là trường hợp nghiêm trọng hơn.
Khoản 4 Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện tội phạm mới thuộc loại ít nghiêm trọng do cố ý. Theo đó, người bị kết án chỉ được xét giảm lần đầu sau khi đã chấp hành được 1/2 mức hình phạt chung. Như vậy, điều kiện xét giảm lần đầu (đã chấp hành được 1/2 mức hình phạt chung) của trường hợp này cao hơn trường hợp bình thường vì là trường hợp nghiêm trọng hơn.
Khoản 5 Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện tội phạm mới thuộc loại nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng. Theo đó, người bị kết án chỉ được xét giảm lần đầu sau khi đã chấp hành được 2/3 mức hình phạt chung.
Trong trường hợp hình phạt chung là hình phạt tù chung thân thì người bị kết án chỉ được giảm lần đầu sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và phải đảm bảo thời gian thực tế chấp hành là 25 năm. Như vậy, trừ trường hợp có hình phạt chung là hình phạt tù chung thân, điều kiện xét giảm lần đầu (đã chấp hành được 2/3 mức hình phạt chung) của trường hợp này cao hơn trường hợp được quy định tại khoản 4 vì là trường hợp nghiêm trọng hơn.
Khoản 6 Điều 63 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt đối với người bị kết án tù chung thân thay vì tử hình do được ân giảm hoặc thuộc những người không được áp dụng hình phạt tử hình theo điểm b hoặc c khoản 3 Điều 40 Bộ luật Hình sự. Theo đó, điều kiện xét giảm lần đầu đòi hỏi người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù được 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.
Như vậy, điều kiện xét giảm lần đầu (phải chấp hành hình phạt tù được 25 năm) và thời hạn thực tế phải chấp hành hình phạt (là 30 năm) cao hơn so với các trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 5 của điều luật đối với người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án tù chung thân và người bị kết án có hình phạt chung là tù chung thân vì đây cũng là trường hợp nghiêm trọng hơn.
Điều 63. Giảm mức hình phạt đã tuyên
1. Người bị kết án cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn hoặc phạt tù chung thân, nếu đã chấp hành hình phạt được một thời gian nhất định, có nhiều tiến bộ và đã bồi thường được một phần nghĩa vụ dân sự, thì theo đề nghị của cơ quan thi hành án hình sự có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định giảm thời hạn chấp hành hình phạt.
Thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.
2. Một người có thể được giảm nhiều lần, nhưng phải bảo đảm chấp hành được một phần hai mức hình phạt đã tuyên.
Người bị kết án tù chung thân, lần đầu được giảm xuống 30 năm tù và dù được giảm nhiều lần cũng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 20 năm.
3. Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời gian thực tế chấp hành là 25 năm.
4. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới ít nghiêm trọng do cố ý, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được một phần hai mức hình phạt chung.
5. Đối với người đã được giảm một phần hình phạt mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng, thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu sau khi người đó đã chấp hành được hai phần ba mức hình phạt chung hoặc trường hợp hình phạt chung là tù chung thân thì việc xét giảm án thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều này.
6. Đối với người bị kết án tử hình được ân giảm hoặc người bị kết án tử hình thuộc trường hợp quy định tại điểm b hoặc điểm c khoản 3 Điều 40 của Bộ luật này thì thời gian đã chấp hành hình phạt để được xét giảm lần đầu là 25 năm và dù được giảm nhiều lần nhưng vẫn phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành hình phạt là 30 năm.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338