Thừa kế là sự chuyển dịch tài sản của người chết cho những chủ thể còn sống theo ý chí của người để lại tài sản hoặc theo quy định pháp luật. Do đó, cần nắm chắc các quy định về quyền thừa kế, di sản, người thừa kế; thời điểm, địa điểm mở thừa kế; thời hiệu thừa kế. Tại Điều 609 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền thừa kế. Theo đó, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
Việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài, bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho con nuôi được nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong môi trường gia đình và đây cũng xem là mục đích nhân đạo. Theo Luật Nuôi con nuôi năm 2010 có hiệu lực thì con nuôi hợp pháp phải có giấy chứng nhận nuôi con nuôi của cha nuôi, mẹ nuôi. Còn nếu trước ngày Luật này có hiệu lực mà chưa đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn 05 năm (đây là trường hợp đăng ký nuôi con nuôi thực tế), kể từ ngày Luật này có hiệu lực, nếu đáp ứng các điều kiện sau: Các bên có đủ điều kiện về nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật tại thời điểm phát sinh quan hệ nuôi con nuôi; Đến thời điểm Luật Nuôi con nuôi có hiệu lực, quan hệ cha, mẹ và con vẫn đang tồn tại và cả hai bên còn sống; Giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục nhau như cha mẹ và con.
Điều kiện của người nhận con nuôi, khoản 1 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi quy định người nhận con nuôi phải có đủ các điều kiện như: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; Hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; Có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con nuôi; Có tư cách đạo đức tốt.
Tại Điều 653 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ. Theo đó, con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật Dân sự.
Từ quy định trên có thể thấy, một người đã nhận người khác làm con nuôi của mình theo quy định của pháp luật sẽ là cha nuôi, mẹ nuôi của người con nuôi đó. Vì thế họ là những người thừa kế ở hàng thứ nhất của con nuôi và ngược lại, con nuôi là người thừa kế ở hàng thứ nhất của cha mẹ nuôi mình. Có thể hiểu một người vừa được thừa kế di sản của bố mẹ nuôi vừa được thừa kế đối với gia đình cha mẹ đẻ như người không làm con nuôi của người khác; người nhận nuôi con nuôi vừa thừa kế của con nuôi vừa được thừa kế của con đẻ như một người không nuôi con nuôi; đối với cha mẹ vừa có quan hệ thừa kế với con đẻ vừa có quan hệ thừa kế với con nuôi; đối với người con nuôi vừa có quan hệ thừa kế với cha mẹ nuôi vừa có quan hệ thừa kế với cha mẹ đẻ của mình. Đối với việc thừa kế của người con cần xác định:
- Về phía gia đình cha mẹ nuôi của người đi làm con nuôi chỉ có quan hệ thừa kế với cha nuôi, mẹ nuôi nhưng không có quan hệ thừa với cha mẹ và con đẻ của người nhận con nuôi. Cha mẹ của người nhận con nuôi cũng không được thừa kế của người con đó. Nếu cha nuôi với mẹ nuôi kết hôn với người khác thì người con nuôi đó không đương nhiên trở thành con nuôi của người khác đó, vì thế họ không phải là thừa kế của nhau theo pháp luật.
- Về phía gia đình, cha mẹ đẻ của người đi làm con nuôi; người đã đi làm con nuôi của người khác vấn có quan hệ thừa kế với cha mẹ, ông bà nội ngoại, các cụ nội ngoại, anh, chị, em ruột, cô, gì, chú, bác cậu ruột như người không đi làm con nuôi. Về nội dung này cần lưu ý. Pháp luật đã thừa nhận quan hệ hôn nhân phát sinh trước ngày Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 mà không đăng ký kết hôn thì cũng nên thừa nhận việc nuôi con nuôi thực tế được xác lập trước ngày này. Việc nhận nuôi con nuôi từ sau ngày Luật Hôn nhân và Gia đình 1986 có hiệu lực đến trước ngày 01/01/2011 mà không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì được đăng ký trong thời hạn từ 01/01/2011 đến hết ngày 31/12/2015. Các trường hơp nhận nuôi con nuôi trước ngày 01/01/2011 đến hết ngày 31/12/2015. Nếu hết thời hạn này mà việc nhận nuôi con nuôi không được đăng ký thì không có giá trị pháp lý. Quy định này vừa đảm bảo quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi đồng thời thể hiện sự thống nhất trong quy định pháp luật.
Tại Điều 653 Bộ luật Dân sự năm 2015, pháp luật không hạn chế quyền thừa kế của người đã được nhận làm con nuôi của người khác đối với cha mẹ đẻ của mình. Khi đó, người được nhận làm con nuôi của người khác vừa có quyền nhận thừa kế từ cha mẹ nuôi, vừa có quyền nhận thừa kế từ cha mẹ đẻ. Theo đó, Điều 651 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định những người thừa kế tại hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết được ưu tiên hưởng thừa kế. Ngoài ra, nếu trong di chúc của cha mẹ đẻ có để lại di sản cho người con đã được nhận nuôi thì người này hoàn toàn được hưởng phần di sản do cha mẹ đẻ để lại. Bởi để lại di sản cho ai là quyền của người lập di chúc theo quy định tại Điều 626 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Điều 653. Quan hệ thừa kế giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi và cha đẻ, mẹ đẻ
Con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338