Từ khi sinh ra, con người đã được pháp luật công nhận những quyền cơ bản, trong đó có quyền có họ, tên. Một cá nhân sinh ra, muốn tồn tại và phát triển thì phải có những dấu hiệu cơ bản nhất để cá biệt hóa cá nhân. Cá nhân phải tồn tại dưới một tên gọi nhất định và pháp luật phải công nhận cho họ có quyền có họ, tên. Một người có thể có nhiều tên gọi khác nhau như tên gọi ở nhà, tên gọi khi còn nhỏ, tên gọi ở chùa, nhà thờ... Tuy nhiên, chỉ có tên ghi nhận trong giấy khai sinh xác định là họ, tên mới có giá trị về mặt pháp lý.
Theo quy định pháp luật thì mỗi người khi sinh ra đều có quyền có họ và tên. Họ và tên của một con người sẽ được gắn liền xuyên suốt trong đời sống sinh hoạt hằng ngày của họ, là phương tiện giao tiếp, thực hiện các cuộc giao dịch. Chính vì vậy, khi họ và tên không đáp ứng được vai trò của nó, trong một số trường hợp nhất định, chúng ta có quyền thay đổi họ, thay đổi tên của mình. Trong phạm vi bài viết này sẽ phân tích về quyền thay đổi họ, thay đổi tên theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 và Nghị định số 123/2015/NĐ-CP về việc quy định chi tiết một số điều và hướng dẫn thi hành Luật Hộ tịch.
Về thẩm quyền thay đổi hộ tịch: Đối với trường hợp người chưa đủ 14 tuổi việc thay đổi hộ tich thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã (xã, phường, thị trấn) theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 7 Luật Hộ tịch số 60/2014/QH13 ngày 20/11/2014 của Quốc hội.
Đối với trường hợp công dân Việt Nam từ đủ 14 tuổi trở lên cư trú ở trong nước việc thay đổi hộ tịch thuộc thẩm quyền của UBND cấp huyện (huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh) theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 7 Luật Hộ tịch số 60/2014/QH13 ngày 20/11/2014 của Quốc hội.
Trước hết, theo điểm a khoản 1 Điều 28 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì giới hạn của việc thay đổi tên phải theo yêu cầu của người có tên mà việc sử dụng tên đó gây nhầm lẫn. Vậy, như thế nào được cho là gây nhầm lẫn, trong thực tế, việc đặt tên là do ý chí chủ quan của cha mẹ, ông bà, người thân thích nhưng khi lớn lên, có những trường hợp cá nhân đó cảm thấy không tự tin với tên của mình trong giao tiếp, muốn thay đổi tên của mình, chẳng hạn tên con trai nhưng tên giống với con gái, tên đệm không được “đẹp” cho lắm... Điều này đã làm cho họ cảm thấy mặc cảm với bản thân và xã hội, khiến họ luôn có cảm giác bị kỳ thị, xa lánh… gây ảnh hưởng xấu đến danh dự, tình cảm của họ. Tuy nhiên, khi làm thủ tục thay đổi đối với những trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền ở mỗi địa phương có cách hiểu khác nhau, có nơi chấp nhận yêu cầu cho thay đổi tên, có nơi lại không chấp nhận.
Điều 28 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi tên trong trường hợp sau đây:
- Theo yêu cầu của người có tên mà việc sử dụng tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó;
- Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt;
- Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con;
- Thay đổi tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình;
- Thay đổi tên của vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại tên trước khi thay đổi;
- Thay đổi tên của người đã xác định lại giới tính, người đã chuyển đổi giới tính;
- Trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.
Lưu ý: Việc thay đổi tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó. Việc thay đổi tên của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập theo tên cũ.
Đồng thời, tại khoản 1 Điều 7 Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 về điều kiện thay đổi, cải chính hộ tịch có quy định: “Việc thay đổi họ, chữ đệm, tên cho người dưới 18 tuổi theo quy định tại Khoản 1 Điều 26 của Luật Hộ tịch phải có sự đồng ý của cha, mẹ người đó và được thể hiện rõ trong Tờ khai; đối với người từ đủ 9 tuổi trở lên thì còn phải có sự đồng ý của người đó”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng việc thay đổi tên là quyền của mỗi con người, nhưng cá nhân đó phải đáp ứng điều kiện được quy định tại Điều 27 (khi yêu cầu thay đổi họ) và Điều 28 (khi yêu cầu thay đổi tên) của Bộ luật Dân sự năm 2015, đồng thời phải có sự đồng ý của cha, mẹ người được yêu cầu thay đổi họ, thay đổi tên trong tờ khai. Đối với trường hợp người từ đủ 9 tuổi trở lên thì phải có sự đồng ý của người đó.
Thủ tục thay đổi tên trên giấy khai sinh:
Thủ tục thay đổi tên trên giấy khai sinh được thực hiện theo quy định tại Điều 28 Luật Hộ tịch 2014, cụ thể như sau:
(1) Người yêu cầu đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy tờ liên quan cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Đồng thời, cần xuất trình bản chính Giấy khai sinh của người cần thay đổi tên và các giấy tờ có liên quan để làm căn cứ cho việc thay đổi tên của người đó.
(2) Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ giấy tờ trên, nếu thấy việc thay đổi, cải chính hộ tịch là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật dân sự và pháp luật có liên quan, công chức tư pháp - hộ tịch ghi vào Sổ hộ tịch, cùng người yêu cầu đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch ký vào Sổ hộ tịch và báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp trích lục cho người yêu cầu. Trường hợp thay đổi, cải chính hộ tịch liên quan đến Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn thì công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung thay đổi, cải chính hộ tịch vào Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn. Trường hợp cần phải xác minh thì thời hạn được kéo dài thêm không quá 03 ngày làm việc.
(3) Trường hợp đăng ký thay đổi, cải chính hộ tịch không phải tại nơi đăng ký hộ tịch trước đây thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao trích lục hộ tịch đến Ủy ban nhân dân nơi đăng ký hộ tịch trước đây để ghi vào Sổ hộ tịch. Trường hợp nơi đăng ký hộ tịch trước đây là Cơ quan đại diện thì Ủy ban nhân dân cấp xã phải thông báo bằng văn bản kèm theo bản sao trích lục hộ tịch đến Bộ Ngoại giao để chuyển đến Cơ quan đại diện ghi vào Sổ hộ tịch.
Điều 28. Quyền thay đổi tên
1. Cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi tên trong trường hợp sau đây:
a) Theo yêu cầu của người có tên mà việc sử dụng tên đó gây nhầm lẫn, ảnh hưởng đến tình cảm gia đình, đến danh dự, quyền, lợi ích hợp pháp của người đó;
b) Theo yêu cầu của cha nuôi, mẹ nuôi về việc thay đổi tên cho con nuôi hoặc khi người con nuôi thôi làm con nuôi và người này hoặc cha đẻ, mẹ đẻ yêu cầu lấy lại tên mà cha đẻ, mẹ đẻ đã đặt;
c) Theo yêu cầu của cha đẻ, mẹ đẻ hoặc người con khi xác định cha, mẹ cho con;
d) Thay đổi tên của người bị lưu lạc đã tìm ra nguồn gốc huyết thống của mình;
đ) Thay đổi tên của vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại tên trước khi thay đổi;
e) Thay đổi tên của người đã xác định lại giới tính, người đã chuyển đổi giới tính;
g) Trường hợp khác do pháp luật về hộ tịch quy định.
2. Việc thay đổi tên cho người từ đủ chín tuổi trở lên phải có sự đồng ý của người đó.
3. Việc thay đổi tên của cá nhân không làm thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập theo tên cũ.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338