Language:
Đại diện theo ủy quyền (Điều 138)
19/03/2023
icon-zalo

Luật sư Hà Thị Khuyên

Luật sư Nguyễn Văn Đồng

 

Theo quy định pháp luật dân sự, cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác.

 

Phân tích:

 

Quy định tại Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định rõ ràng, chặt chẽ hơn về chủ thể của quan hệ đại diện theo ủy quyền, theo đó người đại diện theo ủy quyền có thể là pháp nhân, cá nhân; người được đại diện theo ủy quyền cũng có thể là pháp nhân, cá nhân. Quy định về đại diện theo ủy quyền của hộ gia đình, tổ hợp tác và các tổ chức khác không có tư cách pháp nhân. Cụ thể, các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của  các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.

 

Về phạm vi đại diện, được quy định tại Điều 144 Bộ luật Dân sự năm 2015, điều luật nêu rất rõ căn cứ để xác định phạm vi ủy quyền tương ứng với từng hình thức đại diện. Đối với đại diện theo pháp luật, phạm vi ủy quyền được xác định căn cứ vào quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc xác định theo điều lệ của pháp nhân; đối với đại diện theo ủy quyền, phạm vi ủy quyền xác định căn cứ vào nội dung ủy quyền.

 

Hậu quả pháp lý của hành vi đại diện, trong vai trò đại diện tồn tại các mối "quan hệ giữa người được đại diện và người đại diện" trong mối quan hệ này người đại diện sẽ  thực hiện những nghĩa vụ trong phạm vi đại diện, ví dụ: cha mẹ đại diện cho con chưa thành niên, vợ/chồng đại diện (giám hộ) cho người còn lại không có năng lực hành vi dân sự... đây chính là cơ sở làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho người được đại diện. "Quan hệ giữa người đại diện với người thứ ba" đây là quan hệ phát sinh trên cơ sở mối quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện, phụ thuộc vào nội dung mối quan hệ giữa người đại diện và người được đại diện. Trong quan hệ này, người đại diện phải thông báo cho người thứ ba biết về phạm vi đại diện của mình, và việc xác định hậu quả pháp lý của hành vi đại diện có ý nghĩa rất quan trọng, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của nhiều chủ thể.

 

Điều 139 Bộ luật Dân sự năm  2015 đã quy định cụ thể là người được đại diện chỉ có các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do người đại diện xác lập với người thứ ba nếu giao dịch này phù hợp với phạm vi đại diện; đồng thời nếu người đại diện biết hoặc phải biết việc xác lập hành vi đại diện là do bị nhầm lẫn, bị lừa dối, bị đe dọa, cưỡng ép mà vẫn xác lập, thực hiện hành vi thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện, trừ trường hợp người được đại diện biết hoặc phải biết về việc này mà không phản đối.

 

Thời hạn đại diện và chấm dứt đại diện, thời hạn đại diện là một căn cứ pháp lý quan trọng nhằm xác định hiệu lực pháp lý của các giao dịch dân sự do người đại diện xác lập với người thứ ba, từ đó làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý của người được đại diện. Nếu các giao dịch dân sự này được xác lập ngoài thời hạn đại diện sẽ không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ tương ứng của người được đại diện. Theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 140 Bộ luật Dân sự năm 2015, việc chấm dứt đại diện được xem xét trong hai trường hợp, tương ứng với hai hình thức đại diện là chấm dứt đại diện theo pháp luật và chấm  dứt đại diện theo ủy quyền.

 

Trường hợp không có thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền đại diện, theo quy định tại khoản 1 Điều 139 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì "Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập, thực hiện với người thứ ba phù hợp với phạm vi đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với người được đại diện". Tuy nhiên, trên thực tế, có nhiều trường hợp những giao dịch dân sự do một người đại diện cho người khác xác lập, thực hiện mà không có thẩm quyền hoặc vượt quá thẩm quyền đại diện. Khi đó, hậu quả của các giao dịch được thực hiện theo Điều 143, 143 Bộ luật Dân sự năm 2015.

 

Như vậy, việc xác lập quan hệ đại diện theo quy định của Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2015 và những quy định liên quan cần lưu ý: Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân là người được xác định theo điều lệ hoặc theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và  pháp nhân có thể là người đại diện theo ủy quyền cho các chủ thể khác; đại diện theo  pháp luật có quyền nhân danh bên được đại diện xác lập, thực hiện hành vi pháp lý phù hợp với quyền, nghĩa vụ của đại diện theo pháp luật. Trường hợp pháp nhân có nhiều đại diện theo pháp luật thì mỗi người có quyền đại diện cho pháp nhân phù hợp với quyền, nghĩa vụ của mình. Giao dịch dân sự do bên đại diện xác lập, thực hiện với bên thứ ba phù hợp với phạm vi quyền đại diện làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của bên được đại diện. Bên đại diện có quyền xác lập, thực hiện hành vi cần thiết tùy thuộc hoàn cảnh để đạt được mục đích phù hợp với phạm vi quyền đại diện…

 

Điều 138. Đại diện theo ủy quyền

1. Cá nhân, pháp nhân có thể ủy quyền cho cá nhân, pháp nhân khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.

2. Các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân.

3. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.

 

Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338