Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Miễn hình phạt là việc không buộc người phạm tội đã bị kết án phải chịu hình phạt về tội mà họ đã thực hiện. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích quy định về "Miễn hình phạt" tại Điều 59 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Theo quy định pháp luật, miễn hình phạt được hiểu là không buộc một người phải chịu trách nhiệm hình phạt về tội mà người đó đã thực hiện. Hình phạt là một biện pháp cưỡng chế của Nhà nước không chỉ có mục đích trừng trị mà còn nhằm giáo dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt là hậu quả pháp lý của tội phạm. Do đó đã phạm tội thì không thoát khỏi bị trừng phạt, trong thực tế cũng có trường hợp nếu việc áp dụng hình phạt không đạt được mục đích của hình phạt hoặc trái với nguyên tắc nhân đạo của Luật hình sự thì không cần thiết phải áp dụng hình phạt.
Người được miễn hình phạt tức là được miễn cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung (nếu có). Bởi hình phạt bổ sung là hình phạt chỉ có thể áp dụng kèm với hình phạt chính, có tác dụng củng cố, tăng cường hiệu quả của việc áp dụng hình phạt, giúp cho việc xử lý tội phạm được toàn diện và triệt để. Khi hình phạt chính được miễn thì việc thi hành hình phạt bổ sung là không hợp pháp và không cần thiết. Ngoài ra, người được miễn hình phạt vẫn có thể bị áp dụng một số biện pháp tư pháp. Và trong thực tiễn xét xử cho thấy, người được miễn hình phạt có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp tư pháp được quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự 2015 bao gồm: Tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh.
Điều kiện được miễn hình phạt mà chủ thể của tội phạm là "cá nhân":
Theo quy định tại Điều 59 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.
(1) Miễn hình phạt là không buộc người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt về tội họ đã thực hiện.
(2) Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật hình sự. Cụ thể khoản 1 và khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự quy định như sau: "1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; 2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể".
Như vậy, từ quy định trên có thể thấy người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong các trường hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ, hoặc người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể và đáng được khoan hồng đặc biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự. Những trường hợp này thông thường là: Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội vì bị người khác đe dọa, cưỡng bức; phạm tội do lạc hậu hoặc là người phạm tội tự thú…
(3) Điều kiện đủ để người phạm tội được miễn hình phạt đó là người phạm tội đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.
(4) Phân loại tội phạm được miễn hình phạt, theo quy định tại Điều 59 Bộ luật Hình sự năm 2015, có thể thấy rằng, bất cứ tội gì cũng có thể được miễn hình phạt, không phân biệt tội đó là tội ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng.
Điều kiện được miễn hình phạt mà chủ thể của tội phạm là "pháp nhân":
Theo quy định tại Điều 88 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì pháp nhân thương mại phạm tội có thể được miễn hình phạt khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Theo đó, pháp nhân thương mại cần hoàn thiện xong các việc bao gồm khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại để được Tòa án xem xét khi quyết định hình phạt.
Điều 59. Miễn hình phạt
Người phạm tội có thể được miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338