Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm dân sự do hành vi gây ra thiệt hại phát sinh giữa các chủ thể. Bên có hành vi trái pháp luật phải bồi thường cho bên bị thiệt hại. Theo quy định tại Điều 275 Bộ luật Dân sự 2015, một trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân sự là “gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật” và tương ứng với căn cứ này là các quy định tại Chương XX, Phần thứ ba Bộ luật này về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Trách nhiệm được hiểu là bổn phận, nghĩa vụ của bên gây thiệt hại phải bồi thường cho bên bị thiệt hại, trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng ngoài hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ bồi thường và từ nghĩa vụ phải Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng tạo ra quan hệ nghĩa vụ tương ứng. Căn cứ phát sinh trách nhiệm Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là cơ sở pháp lý mà dựa vào đó, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể xác định trách nhiệm Bồi thường thiệt hại.
Điều 584 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Theo đó, người nào có hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định khác. Người gây thiệt hại không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác. Trường hợp tài sản gây thiệt hại thì chủ sở hữu, người chiếm hữu tài sản phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp thiệt hại phát sinh theo quy định tại khoản 2 Điều 584 Bộ luật Dân sự.
Tại Điều 585 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định nguyên tắc bồi thường thiệt hại. Theo đó, thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
Nguyên tắc thiệt hại thực tế được bồi thường toàn bộ và kịp thời, chỉ những thiệt hại xảy ra trên thực tế được chủ thể bị thiệt hại chứng minh là có xảy ra thì mới được bồi thường, khi thực hiện nghĩa vụ bồi thường chủ thể phải đảm bảo việc bồi thường được tiến hành theo nguyên tắc bồi thường toàn bộ, kịp thời và thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức, phương thức bồi thường.
- "Bồi thường toàn bộ", thiệt hại xảy ra bao nhiêu thì bồi thường bấy nhiêu, bồi thường toàn bộ được xác định dựa trên tổn thất thực tế mà bên bị thiệt hại có đủ căn cứ chứng minh và thỏa thuận của các bên; mức bồi thường được xác định cuối cùng chính là mức bồi thường mà chủ thể vi phạm phải chịu trách nhiệm.
- "Bồi thường thiệt hại kịp thời", bồi thường thiệt hại mang tính chất khắc phục, bù đắp những tổn thất về tinh thần, vật chất cho chủ thể bị thiệt hại vì vậy khoản bồi thường phải được chuyển giao cho chủ thể bị thiệt hại kịp thời, nhanh chóng, việc bồi thường kịp thời không chỉ bảo vệ lợi ích cho bên bị thiệt hại, mà trong nhiều trường hợp bồi thường kịp thời còn giúp ngăn chặn thiệt hại lớn hơn có thể xảy ra, làm giảm mức bồi thường trên thực tế mà bên vi phạm phải chịu.
- "Thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức, phương thức bồi thường", pháp luật tôn trọng và trao cho các bên quyền được thỏa thuận những vấn đề trong quan hệ bồi thường thiệt hại như mức bồi thường, hình thức, phương thức bồi thường; trên cơ sở thỏa thuận, các bên có thể nhanh chóng giải quyết vấn đề và thuận lợi hơn cho các bên, các bên có thể thỏa thuận mức bồi thường dựa trên cơ sở thiệt hại xảy ra trên thực tế; hình thức bồi thường có thể bằng tiền mặt, bằng hiện vật, hoặc thông qua việc thực hiện một công việc cụ thể, phương thức bồi thường có thể được thực hiện toàn bộ trong một lần hoặc nhiều lần.
Căn cứ giảm mức bồi thường, khi xác định thiệt hại xảy ra và mức bồi thường phù hợp, các bên phải xem xét đến yếu tố là căn cứ giảm mức bồi thường cho bên vi phạm, người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc lỗi vô ý và trách thiệt hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
- "Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại không có lỗi", người gây thiệt hại có thể là bất kỳ cá nhân, tổ chức nào, nhưng việc bồi thường thiệt hại phải do người có khả năng bồi thường và chính họ phải tham gia vào quan hệ nghĩa vụ, mặc dù hành vi gây thiệt hại có thể không do chính họ thực hiện.
- "Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có lỗi do vô ý", người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đồng thời là người gây thiệt hại, nhưng hành vi gây thiệt hại là do lỗi vô lý, cchủ thể không thấy trước hành vi của mình có thể gây thiệt hại, nhưng buộc phải biết hoặc có thể biết nhưng cho rằng thiệt hại không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được; vì thế trường hợp này chủ thể không mong muốn xảy ra thiệt hại, nên có thể xem xét vào mức độ lỗi và mức độ thiệt hại để giảm mức bồi thường cho bên gây thiệt hại.
- "Thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại", dựa vào khả năng kinh tế của chủ thể vi phạm tại thời điểm bồi thường để xác định điều kiện giảm mức bồi thường, nên pháp luật không quy định cụ thể thế nào là quá lớn, đó là quy định mang tính chất chung phải tùy vào từng trường hợp để xác định. Bởi cùng một thiệt hại với đại lượng không đổi, đối với chủ thể này là rất lớn nhưng với chủ thể khác thì đó là bình thường. Bởi vậy, phải căn cứ vào mức bồi thường, hoàn cảnh thực tế của chủ thể tại thời điểm bồi thường để xác định xem chủ thể có đủ điều kiện để được giảm mức bồi thường hay không.
Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường, mức bồi thường được xác định theo thỏa thuận của các bên hoặc do Tòa án quyết định. Mức bồi thường đã xác định hoàn toàn có thể thay đổi nếu không còn phù hợp với thực tế, mức bồi thường thay đổi theo chiều hướng tăng hoặc giảm tùy thuộc vào điều kiện thực tế. Sự thay đổi của các điều kiện thực tế có thể làm thay đổi mức bồi thường như: chi phí chữa bệnh tăng, người được bồi thường tăng thu nhập… Việc xem xét tăng hoặc giảm mức bồi thường do Tòa án xác định hoặc theo yêu cầu của các bên và phải phù hợp với thực tế.
Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra, thiệt hại xảy ra có thể do lỗi của chính bên gây thiệt hại, đó có thể là lỗi vô ý, hoặc cố ý để buộc chủ thể khác phải bồi thường cho mình. Chủ thể bị thiệt hại bằng hành vi của mình tác động làm thiệt hại xảy ra, trong trường hợp này, chủ thể bị thiệt hại đồng thời là chủ thể gây thiệt hại nên không làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của chủ thể khác.
Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình, đây là quy định nhằm ràng buộc trách nhiệm của bên bị thiệt hại trong việc nâng cao ý thức tự bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Thực tế khi có hành vi vi phạm của một bên, bên bị vi phạm hoàn toàn có đủ điều kiện để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại thiệt hại xảy ra nhưng họ đã để mặc cho thiệt hại xảy ra để buộc bên vi phạm phải bồi thường, nhiều chủ thể có thể lợi dụng quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại để buộc chủ thể khác phải chịu trách nhiệm với mình, trục lợi cho bản thân.
Điều 585. Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
1. Thiệt hại thực tế phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu không có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì bên bị thiệt hại hoặc bên gây thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác thay đổi mức bồi thường.
4. Khi bên bị thiệt hại có lỗi trong việc gây thiệt hại thì không được bồi thường phần thiệt hại do lỗi của mình gây ra.
5. Bên có quyền, lợi ích bị xâm phạm không được bồi thường nếu thiệt hại xảy ra do không áp dụng các biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại cho chính mình.
Văn phòng Luật sư Nhân Chính
Liên hệ luật sư: 0936683699 - 0983951338