Luật sư Hà Thị Khuyên
Luật sư Nguyễn Văn Đồng
Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên. Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích về quy định "Phòng vệ chính đáng" tại Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Những điểm mới trong chế định phòng vệ chính đáng quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015:
Về nội dung cơ bản quy định phòng vệ chính đáng trong Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015 giống với nội dung quy định phòng vệ chính đáng tại Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 1999 nhưng có một số điểm mới được bổ sung như sau:
Thứ nhất, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã đặt việc bảo vệ lợi ích chính đáng của mình, của người khác lên trước lợi ích của nhà nước, tổ chức. Điều này phù hợp với tinh thần đề cao quyền tự do của cá nhân con người, bảo vệ quyền con người theo Hiến pháp năm 2013. Đồng thời cũng phù hợp với thực tế xảy ra trong thời gian qua khi áp dụng Bộ luật Hình sự năm 1999, cho thấy các trường hợp phòng vệ chính đáng hoặc vụ án về vượt quá giới hạn chính đáng chủ yếu xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích cá nhân hoặc lợi ích của người thân bị xâm phạm, từ đó mới có hành động phòng vệ chính đáng.
Thứ hai, Bộ luật Hình sự năm 1999 chỉ quy định: “bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức” và “người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự” thì Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thêm cụm từ bảo vệ lợi ích: “của cơ quan” và trách nhiệm hình sự của người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng được nêu thêm cụm từ: “theo quy định của Bộ luật nà”. Như vậy, quy định mới trong Bộ luật Hình sự năm 2015 đã làm rõ thêm nội dung các lợi ích bảo vệ do hành vi phòng vệ chính đáng và phạm vi trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.
Những dấu hiệu pháp lý của chế định phòng vệ chính đáng:
Về dấu hiệu của trường hợp phòng vệ chính đáng, về mặt khoa học pháp lý cần có các nội dung sau đây:
(1) Cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng:
Một người vì lợi ích chính đáng của mình hay của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước… được quyền hành động khi nguồn nguy hiểm do con người đã và đang gây thiệt hại cho các lợi ích hợp pháp. Các nguồn nguy hiểm khác như gây hại của thú dữ, của súc vật, của thiên nhiên… không coi là cơ sở làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng.
Quyền phòng vệ chính đáng chỉ phát sinh khi hành vi tấn công trái pháp luật gây thiệt hại đến các lợi ích đang hiện hữu xảy ra và chưa có dấu hiệu dừng lại. Nếu hành vi tấn công xâm hại đã dừng lại trên thực tế thì quyền phòng vệ không còn, bởi gây thiệt hại cho người đã có hành vi tấn công trái pháp luật ở thời điểm này là không cần thiết, không phù hợp với mục đích của phòng vệ chính đáng.
Trường hợp đặc biệt khi hành vi tấn công trái pháp luật tuy chưa xảy ra nhưng chứa đựng nguy cơ xảy ra ngay tức khắc đe dọa các quyền và lợi ích hợp pháp cần bảo vệ cũng làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng. Điều này xuất phát từ mục đích của chế định phòng vệ chính đáng nhằm bảo vệ và ngăn chặn một cách kịp thời có hiệu quả hành vi xâm phạm trái pháp luật, đồng thời, tạo nên sự chủ động cho người phòng vệ nhằm ngăn chặn hành vi xâm hại.
Hành vi tấn công trái pháp luật có thể gây thiệt hại đến các quyền về nhân thân, quyền sở hữu hay các lợi ích khác của người phòng vệ hay của người khác… Và hành vi tấn công trái pháp luật phải có mức độ nguy hiểm đáng kể mới làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng. Những hành vi xâm hại có tính nhỏ nhặt thì không làm phát sinh quyền phòng vệ chính đáng.
Hành vi tấn công trái pháp luật có thể là hành vi tội phạm nhưng cũng có thể không đủ dấu hiệu là tội phạm. Ví dụ như sự tấn công của người tâm thần, mất trí đang đâm chém người khác…
Biện pháp chống trả của người phòng vệ đối với người đang có hành vi gây thiệt hại, pháp luật cho phép chống trả trong mọi trường hợp mà không buộc người phòng vệ phải lựa chọn biện pháp phòng vệ nhẹ nhàng nhất và cũng không phải chỉ khi không còn biện pháp nào khác mới được quyền phòng vệ. Song đối với hành vi gây thiệt hại của trẻ em, người tâm thần, thì xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo mà thực tiễn xét xử chỉ thừa nhận hành vi gây thiệt hại cho các đối tượng này là hành vi phòng vệ chính đáng khi không còn biện pháp nào khác buộc phải gây thiệt hại cho các đối tượng nêu trên. Ví dụ, người tâm thần đang cầm bó đuốc chạy vào kho xăng dầu của Quân Đội, do tính cấp bách, do không thể còn biện pháp khác thì những người nhìn thấy hiện tượng trên đã dùng vũ lực ngăn chặn nguồn nguy hại nên gây thương tích nặng cho người tâm thần. Hành vi ngăn chặn này được coi là hành vi phòng vệ chính đáng.
(2) Nội dung và phạm vi của quyền phòng vệ chính đáng:
- Nội dung của quyền phòng vệ chính đáng:
Hành vi phòng vệ chính đáng chỉ được pháp gây thiệt hại cho chính người đang có hành vi xâm hại các lợi ích hợp pháp. Thiệt hại này có thể là tính mạng, sức khỏe, tài sản của người đang thực hiện hành vi tấn công xâm hại. Thiệt hại về tài sản có thể là thiệt hại về công cụ, phương tiện mà người có hành xâm hại sử dụng.
Hành vi phòng vệ không được phép gây thiệt hại cho người thứ 3. Bởi một trong các mục đích của phòng vệ chính đáng là ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả hành vi đang gây thiệt hại cho các lợi ích hợp pháp, cho nên người phòng vệ phải ngăn chặn chính nguồn nguy hiểm, chính người đang có hành vi xâm hại. Nếu gây hại cho người khác thì không đạt được mục đích này.
- Phạm vi của quyền phòng vệ chính đáng, đó là người phòng vệ chỉ được quyền gây thiệt hại cho người có hành vi tấn công trái pháp luật trong giới hạn cần thiết. Gây thiệt hại trong giới hạn cần thiết thì không bị coi là tội phạm. Giới hạn “cần thiết” được hiểu là biện pháp phòng vệ nói chung đủ mức ngăn chặn sự tấn công và bảo vệ được các lợi ích hợp pháp. Giới hạn cần thiết không có nghĩa là hậu quả mà người phòng vệ đã gây ra phải bằng hay tương đương với thiệt hại mà người có hành vi tấn công trái pháp luật định gây ra. Trong lý luận và thực tiễn áp dụng, hậu quả mà người phòng vệ gây ra có thể lớn hơn nhiều lần hậu quả mà người có hành vi xâm hại định gây ra vẫn được coi là phòng vệ chính đáng nếu đánh giá hành vi phòng vệ là cần thiết đủ mạnh để ngăn chặn sự tấn công của pháp luật.
Cơ sở để đánh giá hành vi phòng vệ trong giới hạn cần thiết hay vượt quá giới hạn cần thiết phải đánh giá tổng hợp qua nhiều căn cứ, cơ sở khác nhau, mà trước hết cần xem xét đến tính chất tầm quan trọng của quan hệ xã hội bị gây thiệt hại, tính chất, mức độ nguy hiểm mà hành vi tấn công xâm hại (đánh giá thông qua loại công cụ, phương tiện, biện pháp tấn công…), hậu quả nguy hiểm mà hành vi tấn công có khả năng gây ra…Về phía người phòng vệ; người phòng vệ đã sử dụng công cụ phương tiện, cách thức phòng vệ như thế nào; tương quan lực lượng giữa bên phòng vệ và những người có hành vi tấn công trái pháp luật…
Việc đánh giá “giới hạn cần thiết” trong phòng vệ chính đáng chỉ là tương đối. Vì vậy, nếu gây thiệt hại rõ ràng vượt quá giới hạn cần thiết thì người phòng vệ vượt quá phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Những trường hợp người có hành vi phòng vệ vượt quá không rõ ràng thì không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng:
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại. Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự. Ngoài trách nhiệm hình sự thì còn phải thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 594 Bộ luật Dân sự năm 2015 về bồi thường thiệt hại trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Theo đó, người gây thiệt hại trong trường hợp phòng vệ chính đáng không phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Người gây thiệt hại do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải bồi thường cho người bị thiệt hại.
Kết luận:
Theо quy định tại Điều 22 Bộ luật Hình sự năm 2015 “Phòng vệ chính đáng là hành vi củа người vì bảо vệ quyền hоặc lợi ích chính đáng củа mình củа người khác hоặc lợi ích củа Nhà nước, củа cơ quаn tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đаng có hành vi хâm phаn các lợi ích nói trên”. Như vậy, hành vi chống trả củа người phòng vệ chính đаng phải chống trả lại chính người có hành vi tấn công.
Chế định phòng vệ chính đаng đòi hỏi người phòng vệ phải có hành vi chống trả lại chính người có hành vi tấn công. Bởi vì, chỉ có như vậy, hành vi củа người phòng về mới có giúp đạt được mục đích củа phòng vệ chính đáng là ngăn chặn, đẩy lùi, lоại bỏ sự tấn công gây thiệt hại chо хã hội. Hành vi chống trả củа người phòng vệ phải nhằm vàо chính người có hành vi tấn cũng có thể gây thiệt hại chо người tấn công để ngăn chặn sự tấn công bất hợp pháp. Thiệt hại mà người phòng vệ chính đáng gây rа chо người tấn công có thể là thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tự dо củа người tấn công hоặc thiệt hại về tài sản (là công cụ) mà người có hành tấn công sử dụng để thực hiện tội phạm. Sự chống trả gây thiệt hại chо người có hành vi tấn công là để ngăn chặn, đẩy lùi hоặc lоại bỏ hành vi tấn công để bảо vệ lợi ích củа mình, củа Nhà nước, tổ chức hоặc người khác.
Trường hợp người phòng vệ khi chống trả sự tấn công mà gây thiệt hại chо người thứ bа, thì sự gây thiệt hại này không được cоi ở phòng vệ chính đáng. Bởi một trоng các mục đích củа phòng vệ chính đáng là ngăn chặn kịp thời, có hiệu quả hành vi đаng gây thiệt hại chо các lợi ích hợp pháp, chо nên người phòng vệ phải ngăn chặn chính nguồn nguy hiểm là hành vi củа chính người đаng có hành vi хâm hại. Việc gây thiệt hại chо người khác (người thứ bа) trоng trường hợp này không đạt giúp được mục đích củа phóng vệ chính đáng nên không được cоi là phòng vệ chính đáng.
Thực tế hành vi phòng vệ chính đаng phần lớn là hành vi nhằm bảо vệ quyền và lợi ích chính đáng củа người phóng vệ bằng cách gây thiệt hại chо người хâm hại lợi ích củа người phóng vệ. Người phòng về bằng hành động củа mình gây thiệt hại chо người thứ bа (người khác), thực chất là хâm phạm lợi ích củа người khác. Đây là hành vi trái pháp luật và nếu hành vi đó có đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trоng Bộ luật Hình sự thì người thực hiện hành vi trоng trường hợp này phải chịu trách nhiệm hình sự giống như các trường hợp phạm tội thông thường. Theо quy định củа Bộ luật Hình sự, phòng vệ chính đáng là hành vi tích cực, có ích, vì vậy, người phòng vệ chính đáng được phép chống trả hành vi tấn công, хâm phạm lợi ích được pháp luật bảо vệ ngаy cả khi có thể sử dụng biến pháp khác không gây thiệt hại.
Điều 22. Phòng vệ chính đáng
1. Phòng vệ chính đáng là hành vi của người vì bảo vệ quyền hoặc lợi ích chính đáng của mình, của người khác hoặc lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức mà chống trả lại một cách cần thiết người đang có hành vi xâm phạm các lợi ích nói trên.
Phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
2. Vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả rõ ràng quá mức cần thiết, không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại.
Người có hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.
Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338