Language:
Tội cưỡng bức lao động (Điều 297)
28/07/2023
icon-zalo

Luật sư Hà Thị Khuyên

Luật sư Nguyễn Văn Đồng

Khách thể của Tội cưỡng bức lao động là quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, việc làm của công dân được ghi nhận tại Hiến pháp, Bộ luật Lao động và các văn bản liên quan khác. Dưới đây, luật sư của chúng tôi phân tích cấu thành của Tội cưỡng bức lao động quy định tại Điều 297 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Chủ thể của tội phạm:

Chủ thể của Tội cưỡng bức lao động là người từ đủ 16 tuổi trở lên và có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự.

Khách thể của tội phạm:

Khách thể của Tội cưỡng bức lao động là quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề nghiệp, việc làm của công dân được ghi nhận tại Hiến pháp, Bộ luật Lao động và các văn bản liên quan khác.

Mặt chủ quan của tội phạm:

Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn hậu quả xảy ra.

Mặt khách quan của tội phạm:

Mặt khách quan của tội phạm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác ép buộc người khác phải lao động.

Dùng vũ lực là hành vi của người phạm tội sử dụng sức mạnh thể chất (ví dụ hành vi đấm, đá, đánh,…), sử dụng sức mạnh vật chất (ví dụ, hành vi dùng vũ lực bằng các vật liệu cháy nổ, sử dụng vũ khí và một số công cụ nguy hiểm khác như pháo, mìn, súng, dao, kéo,…) tác động vào thân thể của người lao động, làm cho người đó không thể kháng cự hoặc làm tê liệt ý chí, khả năng kháng cự, buộc người đó phải chấp nhận làm một công việc nhất định mà bản thân người đó không muốn làm.

Đe dọa dùng vũ lực là hành vi của người phạm tội có thể bằng hành động nhưng chủ yếu bằng lời nói, thể hiện cho người lao động thấy rằng người phạm tội có thể dùng vũ lực ngay tức khắc nếu người lao động không chấp nhận làm công việc nhất định mà bản thân người đó không muốn làm.

Thủ đoạn khác là hành vi nhằm cho người lao động rơi vào trạng thái không thể chống cự được như nhục mạ; lừa dối; lợi dụng lúc họ khó khăn… gây sức ép bằng cách giữ lương, giữa bằng cấp, giấy tờ tùy thân của người lao động để ép buộc họ phải làm công việc mà học không mong muốn.

Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Người phạm tội chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong trường hợp hậu quả nghiêm trọng xảy ra.

(1) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

(2) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

(3) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%.

Trường hợp hậu quả xảy ra chưa nghiêm trọng theo quy định pháp luật, người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nhưng vẫn phải chịu xử lý vi phạm hành chính theo quy định tại Nghị định của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Ngoài ra, theo quy định tại Bộ luật Lao động, người lao động bị cưỡng bức có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động mà không cần báo trước với người sử dụng lao động.

Hình phạt:

- Khoản 1: Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

- Khoản 2: Phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

- Khoản 3: Phạt tù từ 05 năm đến 12 năm.

- Khoản 4: Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Điều 297. Tội cưỡng bức lao động

1. Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc thủ đoạn khác ép buộc người khác phải lao động thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 31% đến 60%.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:

a) Có tổ chức;

b) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;

c) Làm chết người;

d) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

đ) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;

e) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

a) Làm chết 02 người trở lên;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 122% trở lên.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.

Liên hệ tư vấn luật sư: 0936683699 - 0983951338