Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường
Tội phạm là người chưa thành niên (hay còn gọi là người dưới 18 tuổi phạm tội) là một trong những nhóm tội phạm được các quốc gia đặc biệt quan tâm. Ở Việt Nam tội phạm là người dưới 18 tuổi được pháp luật quy định thành một nhóm đối tượng riêng, có chính sách đặc biệt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội bởi tính chất đặc thù của nhóm tội phạm này.
Chính sách của Đảng và Nhà nước trong đấu tranh với tội phạm là người dưới 18 tuổi là khoan hồng, nhân đạo, chú trọng các giải pháp phòng ngừa, tạo điều kiện cho người phạm tội có cơ hội hối lỗi, sửa sai, làm lại cuộc đời. Với đặc điểm về tâm sinh lý, về nhận thức, về kĩ năng sống, về phát triển và hình thành nhân cách của người dưới 18 tuổi thì nhóm người này dễ mắc sai lầm, trong những sai lầm đó thì có một phần trách nhiệm của người lớn, của gia đình, nhà trường và xã hội.
Cùng với sự phát triển của xã hội, mối liên kết trong gia đình lỏng lẻo, mặt trái của cơ chế thị trường, những cám dỗ của cuộc sống hiện đại đã khiến tội phạm là người dưới 18 tuổi ngày càng trẻ hóa. Có những đối tượng chỉ có 12 - 13 tuổi nhưng đã thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội như giết người, cướp tài sản, mua bán trái phép chất ma tuý... nhưng không thể xử lý bằng chế tài hình sự vì các đối tượng này chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Nhiều đối tượng trong độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi), được xác định là “trẻ em” nhưng hành vi phạm tội không hề “ngây thơ”, tính chất của hành vi rất côn đồ, có tổ chức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, tính chất manh động, gây mất an toàn cho xã hội. Rất nhiều vụ án người phạm tội dưới 18 tuổi nhưng đã thực hiện hành vi giết người hàng loạt, giết người cướp tài sản hay giết người vì những lý do rất nhỏ nhặt, vụn vặt… Bởi vậy đã có nhiều ý kiến cho rằng cần phải hạ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cũng như tăng mức chế tài đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi sửa đổi Bộ luật hình sự. Ngoài ra, cũng có nhiều ý kiến cho rằng cần phải tăng cường giáo dục đạo đức, nâng cao trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội, tăng cường các biện pháp phòng ngừa để kiểm soát tình hình tội phạm là người dưới 18 tuổi, đảm bảo một môi trường văn minh, tiến bộ, lành mạnh cho giới trẻ có cơ hội phát triển và cống hiến cho xã hội.
1. Thực trạng trẻ hóa tội phạm đang xảy ra tại Việt Nam
Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự và mức hình phạt:
Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam thì người từ đủ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự trong một số trường hợp, còn người từ đủ 16 tuổi trở lên thì phải chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội phạm. Cụ thể, Điều 12, Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.”; “Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151, 168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của Bộ luật này”. Đây là một nội dung có sửa đổi bổ sung so với Bộ luật hình sự năm 1999, thể hiện ở chỗ Bộ luật hình sự năm 1999 quy định người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng do lỗi cố ý mà không phân biệt tội nào. Tuy nhiên, với chính sách khoan hồng, nhân đạo, hướng thiện nên Bộ luật hình sự năm 2015 đã thu hẹp phạm vi xử lý bằng chế tài hình sự đối với người dưới 16 tuổi mà chỉ xử lý đối với một số trường hợp của các tội danh đã liệt kê trong điều luật. Chính sách này đã làm giảm chế tài hình sự đối với người dưới 16 tuổi, Phi hình sự hóa một số hành vi nguy hiểm cho xã hội do người dưới 16 tuổi thực hiện xảy ra ở các tội danh không được Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 liệt kê. Trường hợp người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện các hành vi thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng nhưng không thuộc các tội danh đã được Điều 12 Bộ luật hình sự năm 2015 liệt kê thì sẽ không xử lý hình sự mà chỉ có thể áp dụng các biện pháp hành chính để giáo dục tập trung, hoặc giáo dục trong cộng đồng, tại phường, xã.
Bộ luật hình sự Việt Nam hiện nay cũng quy định người từ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi được hưởng chính sách về người dưới 18 tuổi phạm tội, theo đó: Không áp dụng hình phạt tù chung thân, tử hình đối với người dưới 18 tuổi; Đối với người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì hình phạt tù cao nhất không quá 12 năm; Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi thì hình phạt tù cao nhất không quá 18 năm tù; Trường hợp áp dụng tù có thời hạn thì hình phạt với người dưới 18 tuổi sẽ không quá ¾ mức hình phạt đối so với người đã thành niên. Điều 91, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 quy định về nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội như sau:
- Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.
Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm.
- Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 Chương này: Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ tội phạm quy định tại các điều 134, 141, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này; Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ tội phạm quy định tại các điều 123, 134, 141, 142, 144, 150, 151, 168, 171, 248, 249, 250, 251 và 252 của Bộ luật này; Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án.
- Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào những đặc điểm về nhân thân của họ, tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm.
- Khi xét xử, Tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa.
- Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người dưới 18 tuổi phạm tội khi xét thấy các hình phạt và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa.
Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
- Án đã tuyên đối với người chưa đủ 16 tuổi phạm tội, thì không tính để xác định tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm.
Bộ luật hình sự năm 2015 cũng quy định các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp người dưới 18 tuổi được miễn trách nhiệm hình sự. Theo đó, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án chỉ quyết định miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng biện pháp khiển trách, hòa giải tại cộng đồng hoặc biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, nếu người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người đại diện hợp pháp của họ đồng ý với việc áp dụng một trong các biện pháp này. Khi đó, cơ quan chức năng sẽ áp dụng các biện pháp hành chính là: Khiển trách; Hòa giải tại cộng đồng; Giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Ngoài ra bộ luật hình sự còn quy định biện pháp tư pháp là giáo dục tại trường giáo dưỡng...
Khác với người đã thành niên phạm tội, người dưới 18 tuổi phạm tội chỉ bị áp dụng một trong các hình phạt sau đây đối với mỗi tội phạm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Tù có thời hạn. Không áp dụng tù chung thân, tử hình đối với người dưới 18 tuổi.
Quy trình điều tra, truy tố, xét xử với người dưới 18 tuổi cũng có những quy định đặc biệt, đặc thù. Việt Nam đã thành lập tòa án gia đình và người chưa thành niên là những bước thay đổi rất lớn về quá trình tố tụng đối với người chưa thành niên phạm tội. Các chính sách, pháp luật về người dưới 18 tuổi phạm tội như vậy là phù hợp với luật pháp quốc tế, thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với trẻ em, người chưa thành niên.
Như vậy, có thể nói rằng chính sách pháp luật hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội ở Việt Nam đã có những thay đổi theo hướng khoan hồng, nhân đạo hơn, tạo điều kiện cho người dưới 18 tuổi có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, không bị ám ảnh bởi quá khứ tội lỗi. Nội dung chính sách pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phù hợp với luật pháp quốc tế, với xu hướng phát triển kinh tế xã hội, phát triển con người, đảm bảo quyền con người, thể hiện tính nhân văn, hướng thiện và chú trọng các giải pháp phòng ngừa. Người dưới 18 tuổi là người chưa thành niên, chưa phát triển đầy đủ về đạo đức, nhân cách. Ở lứa tuổi đó thì con người chưa thể chín chắn được, chưa thể suy nghĩ thấu đáo, cũng như khó kiểm soát được cảm xúc nên những sai lầm, vi phạm của người dưới 18 tuổi có trách nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội. Ai cũng có một thời tuổi trẻ, một thời nông nổi, ai cũng dễ mắc sai lầm khi tuổi còn trẻ. Bởi vậy, chính sách pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội đòi hỏi tính nhân văn, hướng thiện và phải kết hợp hài hòa, đồng bộ, đầy đủ các yếu tố kinh tế, văn hóa, khoa học, giáo dục, pháp luật, xã hội và có sự tham gia của các cơ quan đoàn thể, các tổ chức xã hội và môi trường gia đình lành mạnh thì mới quản lý tốt đối tượng là người dưới 18 tuổi, hạn chế những vụ việc vi phạm, tội phạm có thể xảy ra.
Phân tích các báo cáo thống kê cho thấy tình hình tội phạm là người dưới 18 tuổi có xu hướng trẻ hoá:
Sau mỗi năm công tác, mỗi nhiệm kỳ, giai đoạn nhất định thì các cơ quan tiến hành tố tụng lại tổng kết thực tiễn, đánh giá, rút kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực tư pháp. Trong đó sẽ thống kê số vụ án, loại án ở mỗi địa phương, mỗi vùng miền, mỗi khu vực, đánh giá nguyên nhân, điều kiện phạm tội, tính chất vụ việc, kết quả điều tra, truy tố, xét xử, kết quả thực hiện các giải pháp phòng ngừa và dự đoán tình hình tội phạm trong thời gian tới.
Theo thống kê gần nhất của Bộ Công an, tỷ lệ gây án ở tuổi vị thành niên trên địa bàn cả nước là 5,2% đối với người dưới 14 tuổi, 24,5% đối với người từ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi và 70,3% đối với người từ 16 đến dưới 18 tuổi.[1]
Theo thống kê của Cục Cảnh sát hình sự Bộ Công an thì trong ba năm từ 2016 đến 2018 toàn quốc đã phát hiện 13.794 vụ với 20.367 đối tượng là người dưới 18 tuổi phạm tội. Trong các tội danh mà người dưới 18 tuổi phạm tội, có thể thống kê một số tội danh như sau: Giết người là 183 vụ với 293 đối tượng; Cướp tài sản là 475 vụ với 830 đối tượng; Cưỡng đoạt tài sản là 88 vụ với 111 đối tượng; Cố ý gây thương tích là 2017 vụ với 3797 đối tượng; Trộm cắp tài sản là 5565 vụ với 7611 đối tượng; Cướp giật tài sản là 505 vụ với 627 đối tượng.[2]
Ngoài các tội danh nêu trên, người dưới 18 tuổi còn phạm các tội khác với 4961 vụ, 10.895 đối tượng. Trong số vụ phạm tội do người dưới 18 tuổi thực hiện thì số vụ do người dưới 14 tuổi gây ra chiếm 6%, số vụ do người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi gây ra chiếm 23%, còn lại số vụ do người từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi thực hiện là 71%.[2]
Từ năm 2016 đến tháng 6/2019, toàn Hệ thống Tòa án thụ lý 8.129 vụ với 10.923 bị cáo là người dưới 18 tuổi (năm 2016 là 2653 vụ với 3494 bị cáo; 2017 là 2119 vụ với 2688 bị cáo; 2018 là 2265 vụ với 3176 bị cáo và 06 tháng đầu năm 2019 là 1092 vụ với 1565 bị cáo). Đã xét xử được 7014 vụ với 9188 bị cáo (năm 2016, 2424 vụ với 3169 bị cáo; năm 2017, 1878 vụ với 2374 bị cáo; 2018, 1800 vụ với 2483 bị cáo và 06 tháng đầu năm 2019 là 912 vụ với 1262 bị cáo). Trong số các bị cáo bị đưa ra xét xử, có độ tuổi từ 14 đến dưới 16 tuổi là 284 chiếm 3% còn lại là ở độ tuổi từ đủ 16 đến dưới 18 tuổi chiếm 97%, về giới tính có 186 bị cáo là nữ giới còn lại là nam giới.[2]
Tình hình người dưới 18 tuổi phạm tội có sự khác nhau giữa mỗi vùng miền, khu vực. Đặc biệt các khu vực thành phố lớn, thành phố trực thuộc trung ương, các khu đô thị đông dân, các khu công nghiệp phát triển thì tỷ lệ người dưới 18 tuổi phạm tội lớn hơn rất nhiều so với các tỉnh, thành phố ở địa phương, các khu vực thuần nông. Theo thống kê của Công an thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2018 đến hết quý 1 năm 2021, thành phố này 884 nghi phạm là người dưới 18 tuổi. Trong đó, giết người 11 vụ, cướp tài sản 47 vụ, hiếp dâm - cưỡng dâm 8 vụ, cố ý gây thương tích 70 vụ, trộm cắp, cướp giật 290 vụ, mua bán tàng trữ ma túy 17 vụ… Dưới 16 tuổi hơn 30%. Nam chiếm hơn 95%. Phân tích về trình độ văn hóa thì có 3,75% không biết chữ, tiểu học 29,33%, THCS 46,51%, THPT 20,41%. Trong 884 đối tượng phạm pháp có đến 553 đối tượng đã bỏ học (chiếm 71,44%). Hơn 71% người trẻ phạm pháp ở TP.HCM có trình độ học vấn thấp, phần lớn đã bỏ học. Điều đáng báo động là một thực trạng trẻ em trộm cắp tài sản là do người lớn xúi giục. Vì trẻ dưới 14 tuổi thì không bị xử lý hình sự về tội danh trộm cắp tài sản, và việc chứng minh người lớn xúi giục để xử lý trách nhiệm rất khó khăn...[3]
Các số liệu được thống kê về người dưới 18 tuổi phạm tội nêu trên và thực tế các vụ án diễn ra trong thời gian qua cho thấy số vụ án, số lượng nghi phạm dưới 18 tuổi phạm tội khá lớn và tính chất của các vụ án mà người dưới 18 tuổi gây ra ngày càng nghiêm trọng, có những vụ án thảm sát, người dưới 18 tuổi sát hại nhiều người như vụ án Lê Văn Luyện ở Bắc Giang, vụ Đặng Như Quỳnh đâm chết nam thanh niên bằng vỏ chai bia vì cho rằng “hỗn láo” ở Quảng Nam, vụ hai anh em sinh đôi Mai Thanh Phúc và Mai Thanh Đức ở Quảng Trị giết người cho vào bao tải ném xuống sông, vụ nữ sinh Nguyễn Thị Giang giết bạn học ở Hưng Yên,.. Việc gia tăng các vụ án có bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội không chỉ tăng về số lượng các bị cáo, mà tuổi đời cũng được trẻ hoá, có nhiều vụ án các bị cáo là người dưới 18 tuổi thực hiện thuộc trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng có khung hình phạt cao nhất là 20 năm tù chung thân hoặc tử hình như tội: “Cố ý gây thương tích”, “Giết người”, “Cướp tài sản”, “Trộm cắp tài sản”.
Những thông tin, con số nêu trên là đáng báo động, buộc các cấp, các ngành phải có những giải pháp hữu hiệu nhất nhằm phòng ngừa sự gia tăng của tình trạng phạm tội ở lứa tuổi chưa trưởng thành.
2. Những tác động đến xã hội khi tội phạm ngày càng trẻ hóa
Gây ra nguy cơ mất an toàn trong xã hội khi nhóm tội phạm là người dưới 18 tuổi khó kiểm soát:
Bất cứ một xã hội nào cũng cần phải phấn đấu đạt được mục tiêu an toàn, ổn định để phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Khi xã hội không an toàn, không ổn định về an ninh trật tự thì rất khó để thu hút đầu tư, rất khó để các doanh nghiệp yên tâm sản xuất, tính mạng, sức khỏe của con người luôn bị đe dọa thì đời sống cũng không thể ổn định được. Bởi vậy giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội là trách nhiệm của nhà nước, mà cụ thể và tập trung nhất là trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Trường hợp khu vực nào, địa phương nào, thời điểm nào để xảy ra nhiều vụ án giết người, cướp tài sản, trộm cắp, cưỡng đoạt tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cố ý gây thương tích... thì người dân sẽ hoang mang, xã hội sẽ bất an.
Với trẻ em và người chưa thành niên là những nhóm đối tượng nhỏ tuổi trong xã hội, được xã hội quan tâm, yêu thương, quý mến. Theo đạo đức xã hội thì những người này phải có nghĩa vụ kính già, yêu trẻ, ngoan ngoãn, lễ phép, biết vâng lời ông bà, cha mẹ và biết giúp đỡ mọi người. Quá trình phát triển và hình thành nhân cách thì những bài học đạo đức, những hành vi đẹp được biểu dương, ca ngợi. Tuy nhiên khi thanh thiếu niên không ngoan ngoãn, không lễ phép, không những thực hiện những hành vi lệch chuẩn, vi phạm đạo đức mà còn thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng như giết người, cố ý gây thương tích, cướp tài sản, trộm cắp tài sản... thì sẽ làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, nguy cơ gây ra tổn thương cho xã hội và tổn hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản của những người xung quanh.
Ảnh hưởng đến tư tưởng, đạo đức của giới trẻ, lực lượng lao động quan trọng trong xã hội:
Khi tội phạm là người dưới 18 tuổi phát triển, diễn biến phức tạp, khó kiểm soát sẽ dẫn đến một môi trường thiếu lành mạnh, không an toàn, có thể là nguyên nhân lôi kéo những trẻ em khác sa vào vòng tội lỗi. Khi ngày càng có nhiều đứa trẻ không biết nghe lời cha mẹ, bỏ học, tụ tập gây mất an ninh trật tự, thực hiện các hành vi phạm tội sẽ làm cho giá trị đạo đức xã hội đảo lộn. Khi nhiều người trẻ thiếu tôn trọng người già, những đứa con sẽ không còn hiếu thảo, mâu thuẫn, xung đột trong xã hội sẽ có nguy cơ gia tăng. Khi chỉ vì lợi ích nhỏ hoặc lý do vụn vặt, ích kỷ mà người trẻ sẵn sàng xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự nhân phẩm của người già thì khi đó đạo đức xã hội đã bị xuống cấp nghiêm trọng.
Với những người trẻ mà không chịu học tập, rèn luyện để có trình độ nhận thức, đạo đức, chuyên môn để trở thành người lao động sống có ích mà lại tụ tập ăn chơi, đua đòi, gây mất an ninh trật tự thì đó là những biểu hiện điển hình về sự suy thoái đạo đức xã hội, cho thấy một môi trường không an toàn, thiếu lành mạnh và ảnh hưởng đến chất lượng nguồn lao động, ảnh hưởng đến đạo đức xã hội. Đó là những biểu hiện đáng báo động của một xã hội đang suy thoái, bất ổn và đáng lo ngại.
Làm suy thoái đạo đức và gây ra nhiều hệ lụy tiêu cực cho xã hội:
Khi trong nhà có một đứa trẻ bất trị, gây ra nhiều vụ việc như đánh lộn, trộm cắp, cướp tài sản, giết người thì chắc chắn gia đình đó sẽ khó mà có hạnh phúc. Khi trong xóm, khu phố có một đứa trẻ bất hảo, bất trị, thường xuyên vi phạm pháp luật, sẵn sàng thực hiện các hành vi phạm tội thì khu phố, làng xóm cũng có bất ổn. Bởi vậy, mỗi đứa trẻ ngỗ ngược, thiếu giáo dục mà không được phát hiện, uốn nắn, xử lý kịp thời thì sẽ gây ra những hệ lụy lâu dài đối với gia đình, làng xóm và xã hội. Với đặc điểm lứa tuổi còn bông bột, thiếu kiềm chế cảm xúc, thiếu kiểm soát hành vi, hiếu thắng, liều lĩnh mà lại thiếu giáo dục nhân cách thì có thể gây ra nhiều hệ lụy, tiêu cực cho xã hội, ảnh hưởng đến đời sống, văn hóa, thậm chí đến tính mạng sức khỏe, tài sản của nhiều người.
3. Nguyên nhân của tình trạng trẻ hóa tội phạm
Ở Việt Nam, việc quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự ít có những thay đổi, Bộ luật hình sự qua các thời kỳ đều quy định là người từ 14 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với một số loại tội phạm. Còn người từ đủ 16 tuổi trở lên thì chịu trách nhiệm hình sự đối với mọi loại tội phạm. Tuy nhiên, thời gian gần đây do sự phát triển về kinh tế xã hội, phát triển về thể chất mà tình trạng những người dưới 14 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội rất nhiều nhưng không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự nên không được coi là tội phạm. Người phạm tội là người dưới 18 tuổi cũng thực hiện hành vi phạm tội rất tinh vi, côn đồ, man rợ, gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội. Trong cơ cấu tội phạm thì tuổi đời của những đối tượng phạm tội ngày càng giảm, hay nói cách khác là nhóm người trẻ tuổi trở thành tội phạm ngày càng nhiều, trong đó không chỉ có những tội phạm về trật tự xã hội mà còn có những tội phạm về kinh tế, ma túy, đặc biệt là tội phạm lừa đảo trên mạng Internet, tội phạm công nghệ cao. Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng này, có thể kể đến như:
Đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi là người dưới 18 tuổi:
Người dưới 18 tuổi được xác định là người chưa thành niên, là người chưa phát triển đầy đủ về nhân cách và đạo đức. Đây là độ tuổi đang được giáo dục phổ thông, giáo dục cơ bản về nhận thức, ý thức, đạo đức trong đó có ý thức chấp hành pháp luật. Ở độ tuổi thanh thiếu niên là độ tuổi phát triển nhanh chóng về thể chất nhưng về tâm sinh lý có những bất ổn, thậm chí nổi loạn. Nếu giáo dục cứng nhắc hoặc giáo dục không đúng cách thì có thể biến những đứa trẻ ngoan ngoãn, hiếu thảo trở thành những đứa trẻ ngỗ ngược, bất trị, chúng có thể bỏ học, tự tử, thậm chí trở thành tội phạm. Ở độ tuổi chưa thành niên thì rất dễ bị cảm xúc chi phối hành vi, chỉ vì những vấn đề nhỏ nhặt mà người chưa thành niên có thể có những xúc động mạnh, thiếu kỹ năng kiểm soát cảm xúc dẫn đến thực hiện những hành vi có tính chất một phát, thiếu sự điều khiển của lí trí, có thể dẫn đến hành vi phạm tội.
Những đổ vỡ trong hạnh phúc gia đình khiến đứa trẻ không được quan tâm giáo dục đúng mức:
Theo nghiên cứu, thống kê về người dưới 18 tuổi phạm tội cho thấy phần lớn những đứa trẻ phạm tội đều sống trong những gia đình không có hạnh phúc phải thường xuyên bị đối xử tàn nhẫn, bỏ học sớm, thiếu sự quan tâm chăm sóc của bố mẹ hoặc những đứa trẻ được nuông chiều, đáp ứng đầy đủ những điều kiện vật chất nhưng thiếu kiểm soát dẫn đến những đứa trẻ mắc những sai lầm rồi trượt dài trên những sai lầm đó.
Trong những gia đình không có hạnh phúc, cha mẹ thường xuyên cãi vã, đánh đập lẫn nhau khiến những đứa trẻ có những suy nghĩ tiêu cực kéo dài, tác động đến sự phát triển hình thành nhân cách khiến chúng trở nên lầm lì hoặc cục súc. Đối với những gia đình mà có cha dượng, mẹ kế, có sự đối xử bất công bằng trong gia đình dễ gây ra những xung đột và những nhận thức lệch lạc của trẻ em.
Khi đứa trẻ sống trong gia đình không có hạnh phúc một thời gian dài, thiếu sự quan tâm chăm sóc giáo dục của cha mẹ rồi đỉnh điểm là bị đẩy ra ngoài xã hội, bỏ học và tự kiếm tiền nuôi sống bản thân thì rất dễ sa ngã phải bị bạn bè xấu lôi kéo để thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, sau đó trở thành người phạm tội khi tuổi đời còn rất trẻ.
Sống trong môi trường bạo lực, thiếu lành mạnh, bị lôi kéo bởi bạn bè xấu:
Thuyết học lại từ xã hội của các học giả Edwin Sutherland, Robert Burgess cho rằng tất cả các hành vi được học nhiều từ xã hội và tội phạm – hình thức của hành vi xảy ra cũng là do học lại từ xã hội. Theo Thuyết học lại từ xã hội, hành vi phạm tội là sản phẩm của môi trường xã hội, không phải là đặc tính bẩm sinh của một số người đặc biệt. Môi trường xã hội xung quanh ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành nhân cách, đạo đức, hành vi của một con người, nhất là với đối tượng trẻ em, người chưa thành niên – những đối tượng đang trong quá trình định hình nhân cách, đạo đức.
Khi sống trong môi trường bạo lực, chứng kiến bạo lực gia đình hoặc bạo lực trên không gian mạng, các trò chơi game hoặc các phim bạo lực trên YouTube, Facebook thì những đứa trẻ trở nên lì lợm, coi việc đánh đấm, giết chóc là chuyện thường tình. Chúng dễ học theo, làm theo những nhân vật trong các câu chuyện, các bộ phim và có thể trở thành những sát thủ máu lạnh nếu như thiếu sự quan tâm giáo dục của cha mẹ.
Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, của công nghệ khiến việc tiếp cận với những bộ phim, những trò chơi game trên internet rất dễ dàng. Nếu cha mẹ thiếu kiểm soát hoặc bỏ mặc, khuyến khích cho con gái chơi những trò game bạo lực thì cũng rất dễ biến những đứa trẻ thành những đứa ưa bạo lực, sẵn sàng sử dụng bạo lực để giải quyết các vấn đề. Các chương trình trên internet không được chọn lọc sẽ khiến đứa trẻ bị “bội thực thông tin”, tiếp thu nhiều thông tin độc hại khiến tâm lý, nhân cách bị ảnh hưởng.
Khi đứa trẻ sống trong môi trường mà cha mẹ không phải là những người mẫu mực, hành vi của cha mẹ thường ngày tác động đến tâm lý, thói quen của đứa trẻ thì sẽ dẫn đến những đứa trẻ có những suy nghĩ hành động như cha mẹ của chúng. Những ông bố, ba mẹ nghiện ngập, thường xuyên đánh đập, chửi bới, nói bậy phải chửi tục và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật thì rất khó để có thể giáo dục những đứa con thành người lương thiện. Trong các môi trường tác động hình thành đến nhân cách của đứa trẻ thì môi trường gia đình là quan trọng nhất, đặc biệt là cách sống, lối sống, suy nghĩ của cha mẹ. Những đứa trẻ như tấm gương phản chiếu của cha mẹ chúng. Bởi vậy để giáo dục được những đứa trẻ ngoan thì trước tiền cha mẹ phải biết sửa mình, phải biết noi gương và tạo ra một môi trường văn minh, lành mạnh thì mới có thể có những đứa trẻ tử tế.
Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ, giúp đỡ của các cơ quan đoàn thể, các tổ chức xã hội và chính quyền địa phương:
Theo quy định của Luật trẻ em và các văn bản pháp luật có liên quan thì trách nhiệm giáo dục, bảo vệ trẻ em không chỉ là trách nhiệm của gia đình mà là còn có trách nhiệm của nhà trường và xã hội, mà cụ thể là trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức xã hội, các đoàn thể có trách nhiệm bảo vệ trẻ em. Khi một đứa trẻ hư, hỗn láo với bố mẹ, thầy cô giáo hoặc vi phạm pháp luật thì không chỉ có trách nhiệm của gia đình mà còn có trách nhiệm của nhà trường và xã hội.
Đối với những gia đình không tốt, cha mẹ thường xuyên đánh cãi chửi nhau hoặc không có trình độ nhận thức đầy đủ để giáo dục con cái, môi trường gia đình không an toàn cho trẻ em thì khi đó trách nhiệm của chính quyền địa phương, của cơ quan đoàn thể, của nhà trường sẽ phải được nâng cao hơn một bước.
Khi cha mẹ giáo dục không khoa học, không đúng cách, thậm chí bỏ rơi mà nhà trường, chính quyền địa phương và các tổ chức xã hội lại không kịp thời phát hiện, can thiệp, hỗ trợ, giúp đỡ thì đứa trẻ sẽ rất dễ sa ngã, bị lôi kéo vào đám bạn xấu rồi trở thành những đối tượng bất trị, gây ra nhiều hệ lụy cho xã hội, chúng dễ dàng thực hiện các hành vi phạm tội, thậm chí trả thù đời hoặc bất cần đời.
Những nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu Tội phạm học và Điều tra tội phạm - Học viện Cảnh sát nhân dân cho thấy, tội phạm thanh thiếu niên gia tăng có nguyên nhân gốc rễ từ hệ thống giáo dục: Gia đình, nhà trường và xã hội. Những hình ảnh bạo lực, thủ đoạn dã man của tội phạm lan tràn trên Internet, đang hàng giờ tác động vào nhận thức, hành vi của thanh, thiếu niên vốn chưa có nhiều kinh nghiệm và kỹ năng sống, khiến một bộ phận thanh thiếu niên bị lệch lạc về nhân cách, hành động theo bản năng, mà thường là rất man rợ và tàn bạo. Động cơ phạm tội thường bắt đầu từ lối sống lười biếng nhưng thích hưởng thụ nên luôn có xu hướng tranh đoạt vật chất.[4]
Mặt trái của sự phát triển kinh tế thị trường và khoa học công nghệ:
Sự phát triển kinh tế thị trường và khoa học công nghệ bên cạnh những tác động tích cực lên đời sống, kinh tế, văn hóa thông tin thì còn có những tác động tiêu cực, một trong số đó là làm ảnh hưởng đến văn hóa, giáo dục, làm tha hóa biến chất, trong một bộ phận lớp trẻ hiện nay chỉ thích ăn chơi, hưởng thụ, lệch chuẩn đạo đức, lối sống; sống nhạt, thờ ơ, vô trách nhiệm với gia đình, cộng đồng và xã hội.
Một số thanh, thiếu niên sinh ra trong gia đình có hoàn cảnh khó khăn, khi lên thành phố kiếm sống, bị các đối tượng xấu lôi kéo, tụ họp thành những băng nhóm cướp để có tiền tiêu xài. Cũng có những thanh niên dù gia đình có điều kiện hay không có điều kiện nhưng có lối sống “ảo”, thích ăn chơi, hưởng thụ, tiêu xài hoang phí, mất kiểm soát, do đó bị đối tượng xấu dụ dỗ lôi kéo thực hiện các vụ án lừa đảo chiếm đoạt tài sản (thường xảy ra trên không gian mạng) hoặc cướp tài sản, trộm cắp tài sản, tham gia các đường dây môi giới mại dâm,…
Khi kinh tế thị trường và khoa học công nghệ phát triển, kéo theo sự bùng nổ của công nghệ thông tin, thì các yếu tố văn hoá nước ngoài du nhập vào nước ta ngày càng phong phú, đa dạng và phức tạp trong quá trình hội nhập, nhưng xã hội lại thiếu một “bộ lọc” hiệu quả đối với các yếu tố văn hoá đó. Kết quả là bên cạnh những yếu tố văn hoá tích cực, tiến bộ cũng không ít yếu tố văn hoá tiêu cực du nhập. Sự bùng nổ thông tin với sự xâm nhập của các băng, đĩa, video, phim ảnh,.. có nội dung bạo lực, khiêu dâm, đồi trụy, khiến một bộ phận không nhỏ trẻ em vùi đầu vào các quán internet để chơi game online, xem những thông tin thiếu lành mạnh, bạo lực, rùng rợn,... Trong môi trường xã hội nhiều biến động đó, đã dẫn đến đạo đức của một bộ phận không nhỏ trẻ em đi xuống, với biểu hiện là đề cao lối sống hưởng thụ, ăn chơi lêu lổng, đua đòi, thích thể hiện mình nên dẫn đến phạm tội nghiêm trọng. Việc dễ dãi, tự nhiên chủ nghĩa khi thông tin về các vụ án, mô tả chi tiết tội ác chiều theo thị hiếu tò mò, hiếu kỳ của một bộ phận người đọc, người xem cũng góp phần "vẽ đường cho hươu chạy" làm lệch lạc thêm nhận thức, hành vi của những thanh, thiếu niên hư hỏng, dễ đẩy các em thành tội phạm.
Ngoài ra việc kinh tế cũng như môi trường internet phát triển cũng tạo ra những vấn đề bất cập trong việc người trẻ dễ dàng tiếp cận, sa đọa, bị dụ dỗ đến việc sử dụng những chất cấm như ma túy đá, ma túy tổng hợp,..gây ra những ảo giác, mà đây là một trong những nguyên nhân khiến gia tăng các vụ trọng án về giết người. Nhiều đối tượng “đập đá” hưng phấn, bị ảo giác, loạn thần đã ra tay sát hại chính bố, mẹ, ông, bà, người thân ruột thịt trong gia đình.
Theo GS.TS Đặng Cảnh Khanh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu truyền thống và phát triển (nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu thanh niên) thì: “Sự phát triển của kinh tế thị trường dẫn đến cuộc sống luôn gấp gáp, căng thẳng đã khiến cho con người phải chịu quá nhiều áp lực. Những người không chịu nổi áp lực này dễ rơi vào trầm cảm hoặc không kiểm soát nổi hành vi của mình. Họ dễ nóng giận, tức tối với những gì không vừa ý mình và chọn bạo lực để xử lý nhanh các tình huống. Ngày nay, thanh thiếu niên cũng đang phải sống trong trong một xã hội luôn căng thẳng với việc học hành, thi cử, tìm kiếm việc làm thêm, thu nhập... cùng vô vàn những mối quan hệ phức tạp. Lúc rảnh rỗi và giải trí thì lại tiếp xúc với những hình ảnh bạo lực, từ phim ảnh, sách báo đến trò chơi điện tử” [5]. Điều này dễ dẫn đến việc tiếp cận những thông tin lệch lạc, phát sinh những suy nghĩ lệch lạc, không kiểm soát, từ đó dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật.
Giải pháp phòng ngừa ít được chú trọng, kém hiệu quả:
Để kiểm soát được tình hình tội phạm thì việc phát hiện, bắt giữ, xử lý là chưa đủ mà quan trọng là phải tìm ra những nguyên nhân, điều kiện phạm tội để đưa ra những giải pháp loại bỏ những nguyên nhân điều kiện đó thì mới kiểm soát được tình hình tội phạm. Theo triết học mác Lênin thì “Nhân - Quả” là một phạm trù triết học. Nguyên nhân có trước, kết quả có sau; nguyên nhân nào thì sẽ ra kết quả đó. Bởi vậy để có một kết quả như ý thì phải kiểm soát được nguyên nhân.
Đối với phòng ngừa tội phạm là người dưới 18 tuổi thì những nguyên nhân từ phía gia đình, nhà trường, xã hội; nguyên nhân tử giáo dục nhận thức, nhân cách; Nguyên nhân từ những tác động của xã hội; nguyên nhân từ các biện pháp xử lý và thủ tục xử lý... là những vấn đề đã được đặt ra từ lâu, tuy nhiên việc thực hiện các giải pháp để phòng ngừa tội phạm nói chung, tội phạm là người dưới 18 tuổi nói riêng nhiều lúc, nhiều nơi chưa đạt hiệu quả, tội phạm là người dưới 18 vẫn diễn biến phức tạp ở nhiều địa phương gây bức xúc trong dư luận. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức chưa được đề cao. Có đến 14 cơ quan tổ chức có trách nhiệm bảo vệ trẻ em, tuy nhiên khi trẻ em bị bạo hành, xâm hại hoặc trẻ em gặp khó khăn, sa ngã thì đôi khi không có cơ quan nào lên tiếng hoặc có lên tiếng cũng chỉ qua loa cho hết trách nhiệm. Cơ chế phối hợp, trách nhiệm cụ thể giữa các cơ quan tổ chức và chính quyền địa phương trong việc bảo vệ trẻ em còn nhiều vấn đề bất cập. Luật trẻ em hiện nay cho dù có nhiều cơ quan cùng thực hiện giám sát quyền trẻ em, nhưng lại chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm giám sát độc lập quyền trẻ em. Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn tới những “lỗ hổng” trong quá trình bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Chỉ đến khi những đứa trẻ trở thành hư hỏng, thực hiện các hành vi đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự, thì khi đó mới phát hiện ra nhiều vấn đề bất cập trong việc giáo dục, quản lý trẻ em và kết quả giải quyết vụ án hình sự cho thấy lỗ hổng cũng như trách nhiệm của người lớn, của cơ quan tổ chức trong hoạt động bảo vệ, giáo dục trẻ em. Bởi vậy, việc thực hiện các giải pháp phòng ngừa tội phạm là người dưới 18 tuổi trong thời gian qua chưa thực sự hiệu quả dẫn đến tình hình tội phạm đối với loại tội phạm này diễn biến phức tạp, đáng lo ngại.
Coi nặng giáo dục kiến thức văn hoá mà chưa hiệu quả trong giáo dục đạo đức, đặc biệt là đối với các học sinh cá biệt:
Chương trình giáo dục phổ thông trong thời gian qua đã có nhiều thay đổi và chuyển biến tích cực. Tuy nhiên nội dung giáo dục vẫn nặng về kiến thức mà còn coi nhẹ vấn đề đạo đức, kỹ năng sống và đặc biệt là giáo dục pháp luật. Rất nhiều đứa trẻ không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội hoặc thiếu kỹ năng để kiểm soát hành vi đến khi thực hiện các hành vi nguy hiểm cho xã hội thì mới ân hận.
Những kiến thức trong chương trình phổ thông hiện nay vẫn khá nặng chương trình giáo dục kỹ năng sống, giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật chưa được đề cao và coi trọng ở các bậc học, cấp học. Bệnh thành tích trong giáo dục cũng là nguyên nhân khiến những đứa trẻ phải mải miết học văn hóa để có thành tích phục vụ cho việc báo cáo của ngành giáo dục. Những đứa trẻ hiếu động, tăng động, gia đình có hoàn cảnh éo le, bị bạo lực gia đình thì không được nhà trường và giáo viên quan tâm đúng mức khiến những đứa trẻ đó bị đẩy dần ra khỏi cộng đồng, trở thành những đứa trẻ có những suy nghĩ tiêu cực tích tụ và có những nhận thức không đầy đủ về cuộc sống.
Tiến sỹ Nguyễn Tùng Lâm - Chủ tịch Hội tâm lý Giáo dục Hà Nội phân tích: “So với dạy chữ, việc “dạy người” của chúng ta đang có phần bị xem nhẹ, hiên nay tại các trường học mới chú trọng vào việc cung cấp kiến thức mà chưa quan tâm đúng mức đến việc dạy cho học sinh kỹ năng sống; việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật để định hướng cho xử sự và hành vi của các em còn quá ít và thiếu thuyết phục…”.[6]
Thời gian qua, bạo lực học đường ngày càng gia tăng. Ảnh hưởng của môi trường giáo dục trong gia đình, trên không gian mạng và giáo dục tại nhà trường đã khiến nhiều đứa trẻ sẵn sàng sử dụng bạo lực để giải quyết vấn đề. Có những thời điểm bạo lực học đường đã trở thành nỗi ám ảnh của nhiều học sinh cũng như của các phụ huynh, gây ra lo lắng trong cộng đồng xã hội. Bạo lực học đường khiến cho nhiều đứa trẻ phải bỏ học, chán học. Với những đứa trẻ bỏ học thường có những hành vi vi phạm pháp luật, có nhiều trường hợp trở thành tội phạm nhưng nhà trường gần như “vô can” trong những vấn đề này.
Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật chưa đạt kết quả cao:
Thực tế hiện nay, công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, nhất là các quy định về giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong quan hệ dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình... chưa sâu rộng; công tác hòa giải ở cơ sở, giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm, chưa triệt để; các biện pháp phòng, chống bạo lực gia đình, bạo lực học đường ở một số địa phương còn mang tính hình thức; công tác quản lý, giáo dục pháp luật cho người chưa thành niên còn nhiều bất cập, hạn chế...Chính vì những nguyên nhân này mà ảnh hưởng rất lớn đến lối sống, nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của trẻ em; trẻ em thường dễ bị kích động dẫn đến các hành vi bạo lực, nhất là tầng lớp thanh, thiếu niên với lối sống thực dụng, ích kỷ, coi thường pháp luật; giá trị nền tảng gia đình, dòng họ, hương ước chưa được coi trọng; các thông tin tiêu cực, văn hóa phẩm đồi trụy và trào lưu sai lệch, cổ súy hành vi côn đồ, bạo lực xuất hiện ngày càng nhiều.
Hiệu quả trong công tác xét xử, thi hành án hình sự và áp dụng các biện pháp hành chính chưa cao:
Chính sách pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội hướng đến mục đích cải tạo, giáo dục, tạo điều kiện để người dưới 18 tuổi có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, trở thành người tốt, sống có ích cho xã hội. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng hình sự, quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không phải cán bộ nào cũng làm tốt, địa phương nào cũng làm tốt. Rất nhiều cán bộ thiếu kỹ năng, thiếu kinh nghiệm thậm chí thiếu trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ đối với những vụ án có người dưới 18 tuổi phạm tội hoặc người bị hại là người dưới 18 tuổi. Việc thực hiện nhiệm vụ có những sai sót, kém hiệu quả có thể dẫn đến tác động tiêu cực đến tâm lý, đời sống và nhận thức của người dưới 18 tuổi, làm không phát huy được tác dụng giáo dục của pháp luật.
Hoạt động tố tụng hình sự máy móc, quyền uy, thiếu thân thiện gần gũi có thể khiến những đứa trẻ sợ hãi sinh ra tâm lý tiêu cực mà không phát huy được giá trị giáo dục. Kết quả thi hành án hình sự không phải lúc nào cũng đạt được hiệu quả. Minh chứng tiêu biểu là rất nhiều trẻ em sau khi chấp hành án hình sự xong, trở về với đời sống xã hội thì lại trở thành những đối tượng cộm cán, bất hảo.
Sự kém hiệu quả trong công tác giáo dục trẻ em thể hiện qua việc những năm tháng giáo dục trong trường giáo dưỡng hoặc cải tạo ở trong các trại giam khiến nhiều đứa trẻ trở nên lì lợm, vô cảm hơn. Môi trường đó khiến nhiều đối tượng trở nên có “số má”, quen biết nhiều đối tượng bất hảo, khi trở về với xã hội lại thành lập các băng ổ nhóm để thực hiện các hoạt động tội phạm. Vấn đề này cần phải nghiên cứu, đánh giá một cách khách quan để tìm ra những nguyên nhân và có những giải pháp để khắc phục.
4. Các giải pháp để đấu tranh với tội phạm là người dưới 18 tuổi
Giải pháp về xây dựng pháp luật:
Pháp luật về trẻ em nằm ở là một hệ thống bao gồm nhiều văn bản quy phạm pháp luật như: Công ước về Quyền trẻ em, Luật trẻ em, Luật giáo dục, Bộ luật dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính, Bộ luật hình sự... và rất nhiều các văn bản pháp luật khác có liên quan. Trong đó, có nhiều các văn bản còn mâu thuẫn, chồng chéo, những quy định còn khó thực hiện, kém hiệu quả. Bởi vậy giải pháp phòng ngừa tội phạm, làm cơ sở đấu tranh với tội phạm là người dưới 18 tuổi thì cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật để quy định quyền cũng như cơ chế được thực hiện quyền của trẻ em. Đồng thời quy định làm rõ trách nhiệm của gia đình, của chính quyền địa phương, của nhà trường và của các cơ quan đoàn thể trong việc bảo vệ trẻ em. Cần phải có những cơ chế và có những biện pháp can thiệp sâu hơn nữa vào vai trò, trách nhiệm giáo dục của cha mẹ đối với trẻ em. Đối với những hành vi vi phạm về Quyền trẻ em thì cần phải cương quyết áp dụng các biện pháp để can thiệp kịp thời, tránh trường hợp đứa trẻ phải sống trong một gia đình thiếu lành mạnh, thiếu giáo dục và có những tác động tiêu cực đến sự phát triển và hình thành nhân cách.
Với những đứa trẻ hiếu động, cá biệt có nguy cơ bỏ học hoặc hay gây rối nơi trường học thì cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa gia đình nhà trường và xã hội để có những biện pháp giáo dục, tránh trường hợp những đứa trẻ này bị đẩy ra khỏi môi trường gia đình và nhà trường để trở thành những đối tượng bất hảo hoặc có thể lôi kéo những đứa trẻ khác trở thành tội phạm.
Giải pháp về áp dụng pháp luật:
Việc áp dụng pháp luật đối với người dưới 18 tuổi phạm tội phải được vận dụng, thực hiện một cách nghiêm túc, đầy đủ để đảm bảo quyền của người dưới 18 tuổi. Cần phải xây dựng bộ máy tư pháp hoàn chỉnh để áp dụng các quy định đặc thù về người dưới 18 tuổi phạm tội như: công tác cán bộ, cơ sở vật chất, cơ chế phối hợp và các chính sách để người dưới 18 tuổi phạm tội nhận thức được sai lầm của mình, có cơ hội sửa chữa giáo dục, cải tạo để trở thành những công dân tốt, sống có ích cho xã hội. Trong đó, đặc biệt là phải xây dựng đội ngũ cán bộ có tâm huyết, có trách nhiệm với công tác trẻ em, am hiểu về tâm sinh lý của trẻ em để kết hợp giáo dục trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, tạo tâm lý được bảo vệ, che chở, giúp đỡ khi trẻ em mắc phải sai lầm, khiến trẻ em “tâm phục khẩu phục” sau khi chấp hành xong hình phạt hoặc các biện pháp hành chính.
Giải pháp về cơ chế chính sách trong việc áp dụng pháp luật:
Ngoài việc hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật thì cũng cần phải xây dựng cơ chế chính sách điều chỉnh việc áp dụng pháp luật hướng đến mục tiêu bảo vệ trẻ em được thực hiện tốt nhất. Cần phải phân loại trẻ em để có những biện pháp giáo dục phù hợp. Chú trọng xây dựng môi trường gia đình lành mạnh, văn minh, có văn hóa để trẻ em có cơ hội phát triển nhân cách và được giáo dục đầy đủ. Khi trẻ em có nguy cơ mất an toàn trong môi trường gia đình thì phải tăng cường trách nhiệm của nhà trường và các cơ quan đoàn thể. Phát hiện ra trẻ em bị xâm hại, bạo hành, bị ảnh hưởng đến đạo đức nhân cách thì chính quyền địa phương, cơ quan đoàn thể và gia đình phải có những cơ chế phối hợp để hỗ trợ, can thiệp kịp thời cũng như giúp đỡ trẻ em có một môi trường lành mạnh hơn, tốt hơn môi trường gia đình mà các em đang sinh sống.
Giải pháp về tuyên truyền pháp luật:
Bên cạnh các giải pháp về xây dựng, áp dụng pháp luật thì các ban, ngành, đoàn thể địa phương cần phải tăng cường tổ chức tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về các quy định của pháp luật cho đối tượng thanh, thiếu niên. Nội dung tuyên truyền phù hợp với từng đối tượng, lứa tuổi, vùng, miền, dân cư, giúp các tầng lớp nhân dân hiểu được tâm lý thanh, thiếu niên để chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn tội phạm do người ở tuổi vị thành niên gây ra. Bởi, chỉ khi các em nắm được pháp luật, nhận thức được tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội và hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội sẽ hạn chế được việc vi phạm pháp luật. Ngoài ra, khi cơ quan bảo vệ pháp luật phát hiện, điều tra, khám phá kịp thời các hành vi phạm tội của thanh, thiếu niên phải đưa ra xử lý kịp thời, nghiêm minh, qua đó kịp thời tuyên truyền pháp luật, răn đe với các đối tượng có ý định phạm tội, khiến họ ý thức được sự trừng trị của pháp luật, loại trừ các tư tưởng manh nha vi phạm pháp luật, hiểu biết được nội dung của tội phạm, kiềm chế các nhu cầu lệch chuẩn. Việc kịp thời tuyên truyền pháp luật tạo cơ hội tốt cho người dân tiếp cận dễ dàng, hiểu rõ hơn về thủ đoạn phạm tội, nguyên nhân phát sinh tội phạm từ đó tự xây dựng cho mình ý thức phòng ngừa trở thành nạn nhân của tội phạm cũng như hình thành các kỹ năng khác trong phòng, chống tội phạm.
Giải pháp về giáo dục:
Cần phải đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục, chú trọng giáo dục đạo đức: “dạy người”, giảm tải chương trình học, tăng cường hoạt động ngoại khóa, giáo dục thể chất và giáo dục kỹ năng sống. Giáo dục tại nhà trường là một môi trường rất quan trọng giúp trẻ nhận thức được các giá trị của đạo đức, văn hóa và có cơ hội thực hành các kiến thức đã học.
Việc giáo dục đạo đức phải kết hợp với giáo dục pháp luật và kỹ năng sống để những đứa trẻ phát triển toàn diện, không chỉ nhận thức được những kiến thức khoa học mà còn biết vận dụng, ứng xử trong đời sống xã hội để trở thành những con người mới xã hội chủ nghĩa, vừa hồng, vừa chuyên và biết tôn trọng pháp luật. Khi trẻ em được giáo dục ý thức tôn trọng, biết sẻ chia, có đạo đức thì nguy cơ trở thành tội phạm sẽ giảm đi rất nhiều. Nói cách khác, người dưới 18 tuổi phạm tội chính là những trường hợp cụ thể của thất bại trong giáo dục nhân cách trong đó có trách nhiệm trực tiếp thuộc về gia đình và nhà trường.
Tăng cường các biện pháp quản lý xã hội, đặc biệt là quản lý trên không gian mạng:
Trẻ em là đối tượng còn thiếu kỹ năng sống, thiếu nhận thức để có thể lựa chọn cho mình những kiến thức, nguồn thông tin lành mạnh. Bởi vậy việc trẻ em tiếp cận với những thông tin, đặc biệt là những thông tin trên không gian mạng cần phải có sự quản lý chặt chẽ của gia đình và của nhà trường. Nhà nước cũng cần phải ban hành và thực hiện các quy phạm pháp luật để quản lý chặt chẽ nhà mạng, quản lý các hoạt động kinh doanh, giáo dục có liên quan đến đạo đức phải nhận thức và phát triển hình thành nhân cách của trẻ em. Các hoạt động kinh doanh có tính bạo lực, kích động bạo lực, lôi kéo làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển hình thành nhân cách của trẻ em thì phải nghiêm cấm và xử lý kịp thời.
Để có được đứa trẻ hoàn hảo, phát triển lành mạnh thì phải tạo ra được môi trường lành mạnh, môi trường văn minh và phải thể hiện rõ trách nhiệm của nhà nước, của chính quyền địa phương, của các cơ quan đoàn thể, của nhà trường và gia đình. Mỗi một vấn đề, một sự việc đều phải tìm ra trách nhiệm, quy trách nhiệm và xử lý trách nhiệm đối với người lớn, với những cơ quan tổ chức cá nhân có liên quan trong nhiệm vụ bảo vệ, giáo dục trẻ em.
Nâng cao vai trò của gia đình, Nhà trường và các tổ chức đoàn thể, trách nhiệm của chính quyền địa phương:
Để phòng ngừa tình trạng tội phạm trẻ hóa, trước tiên cần đẩy mạnh giáo dục gia đình. Bởi lẽ, gia đình có ảnh hưởng rất lớn trong việc hình thành nhân cách mỗi cá nhân. Mỗi đứa trẻ bắt đầu bắt chước hành vi, ứng xử, biểu cảm của mỗi thành viên trong gia đình. Một môi trường tốt, thân thiện được hình thành trong gia đình sẽ giúp hạn chế được việc hình thành những hành vi xấu và nhận thức xấu. Gia đình phải là chủ thể quan tâm giáo dục đạo đức, lối sống; kiểm soát được các mối quan hệ xã hội của chính con em mình để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh những lệch lạc, sai trái. Khi người chưa thành niên biết sống phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội thì sẽ hạn chế được nguy cơ phạm tội. Bên cạnh đó, gia đình phải bồi dưỡng, giáo dục cho người chưa thành niên nhận thức đúng, có hành vi chuẩn mực và có kiến thức pháp luật. Gia đình nên giới thiệu các kiến thức pháp luật một cách có lựa chọn, có hệ thống nhằm giúp cho các em hiểu được đâu là hành vi hợp pháp, đâu là hành vi vi phạm pháp luật, biết mình nên làm gì và không nên làm gì. Như vậy, sẽ hình thành cho các em ý thức tránh xa hành vi vi phạm pháp luật và phạm tội sau này.
Nhà trường cần tổ chức các biện pháp quản lý khoa học, chặt chẽ đối với học sinh. Làm tốt công tác này sẽ tạo điều kiện cho các em chấp hành kỷ luật với ý thức từ thấp đến cao, tạo thành ý thức tự giác cho các em ngay từ khi còn nhỏ, giúp các em hình thành thói quen, chấp hành nghiêm nội quy của nhà trường. Bên cạnh đó, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của các thầy, cô giáo trong việc chăm sóc, giáo dục học sinh. Hình ảnh của các thầy, cô giáo có ảnh hưởng, tác động rất lớn đến sự hình thành nhân cách, trạng thái tâm lý của học sinh. Ngoài ra, cần phải tăng cường công tác tuyên tuyền, giáo dục pháp luật trong nhà trường và phải có sự phối hợp chặt chẽ hơn nữa giữa nhà trường với gia đình trong việc trao đổi thông tin để cùng quản lý giáo dục các em phát triển toàn diện.[7]
Khi môi trường gia đình và môi trường giáo dục có vấn đề, không phát huy được hết vai trò, trách nhiệm của mình thì trách nhiệm của chính quyền địa phương, cơ quan đoàn thể trong việc giáo dục trẻ em, bảo vệ trẻ em là rất quan trọng. Trong đó các mức độ bảo vệ trẻ em sẽ được thể hiện khác nhau, Mặt trận tổ quốc, Tổ dân phố, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Ủy ban nhân dân cấp xã phường,.. là những thiết chế quan trọng để nắm bắt tình hình, kịp thời hỗ trợ can thiệp, giúp đỡ và bảo vệ trẻ em khi những đứa trẻ lâm vào tình trạng bị xâm hại đến quyền trẻ em, ảnh hưởng đến sự phát triển và hình thành nhân cách. Bên cạnh đó, các tổ chức đoàn thể, chính quyền địa phương cũng cần có sự quan tâm tạo ra các sân chơi lành mạnh để hướng các em vào một môi trường tốt, tránh xa tệ nạn xã hội…
Nếu sinh ra trong một gia đình không có hạnh phúc, thường xuyên chứng kiến bạo lực; những đứa trẻ bỏ học mà không có sự quan tâm, giáo dục của gia đình lẫn sự quan tâm của Nhà trường, Chính quyền địa phương, của cơ quan đoàn thể thì những đứa trẻ đó sớm muộn cũng trở thành tội phạm. Bởi vậy, cần phải có sự liên kết phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội đồng thời nâng cao trách nhiệm của các chủ thể này trong việc giáo dục và bảo vệ trẻ em.
Giải pháp về công tác điều tra, xử lý tội phạm:
Cơ quan công an cần thường xuyên theo dõi, nắm bắt tình hình tội phạm hoạt động tại địa phương để triển khai các cao điểm tấn công, trấn áp quyết liệt các băng, nhóm tội phạm nguy hiểm hoạt động đâm thuê, chém mướn, giết người, cướp, cướp giật tài sản... do người ở tuổi vị thành niên gây ra; triệt xóa các tụ điểm phức tạp về tội phạm và tệ nạn xã hội; phối hợp với Viện kiểm sát, Tòa án đưa ra xét xử kịp thời các vụ án điểm nhằm răn đe tội phạm.
Giải pháp về kinh tế, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người dân:
Trẻ em sống trong môi trường gia đình là môi trường tốt nhất, an toàn nhất để phát triển và hình thành nhân cách. Bởi vậy, để có một môi trường tốt thì gia đình phải đảm bảo về điều kiện kinh tế, văn hóa. Các giải pháp về kinh tế, hỗ trợ việc làm, nâng cao đời sống vật chất tinh thần của người dân cũng sẽ góp phần tạo ra một môi trường an toàn, lành mạnh cho trẻ em. Khi đời sống kinh tế văn hóa xã hội phát triển thì trẻ em có nhiều cơ hội phát triển bản thân hơn. Khi đó, trẻ em sẽ được bảo vệ tốt nhất trong một môi trường văn minh. Còn khi đời sống kinh tế văn hóa của gia đình, xã hội gặp nhiều khó khăn thì trẻ em cũng sẽ phải chịu những thiệt thòi, thậm chí có thể bị bỏ học sớm, đi tìm việc làm ở nơi thành thị, thiếu sự quan tâm giám sát giáo dục của cha mẹ, bị bạn bè lôi kéo, có thể trở thành những người phạm tội....Việc xây dựng một cộng đồng xã hội có nền tảng văn hóa cao, kinh tế phát triển, con người có tri thức và hiểu biết để biết sống với nhau một cách tốt đẹp hơn sẽ tạo ra môi trường hoàn thiện, an toàn, lành mạnh để trẻ em phát triển và hình thành nhân cách tốt.
Kết luận:
Đấu tranh phòng và chống tội phạm là nhiệm vụ lâu dài của Đảng và Nhà nước trong công cuộc xây dựng đất nước. Đối với tội phạm là người dưới 18 tuổi thì đây là nhiệm vụ quan trọng được Đảng và Nhà nước rất quan tâm trong thời gian qua. Tuy nhiên với tình hình tội phạm là người dưới 18 tuổi diễn biến phức tạp trong thời gian gần đây thì vấn đề chính sách, pháp luật trong phòng chống tội phạm là người dưới 18 tuổi cần được quan tâm nhiều hơn.
Đối với người dưới 14 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội như giết người, cướp tài sản thì đó là một thực trạng đáng buồn. Để giảm thiểu đối với những sự việc như thế này thì cần phải tăng cường giáo dục, trong đó giáo dục đạo đức, giáo dục pháp luật, tăng cường trách nhiệm của gia đình phối hợp với nhà trường và xã hội. Sẽ không giảm độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự cho phù hợp với luật pháp quốc tế và với chính sách pháp luật chung của Việt Nam. Giữ nguyên tuổi chịu trách nhiệm hình sự là từ đủ 14 tuổi đối với một số tội danh là cần thiết và phù hợp. Còn đối với những người dưới 18 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội thì trách nhiệm thuộc về gia đình, nhà trường và xã hội. Mặc dù xã hội phát triển, thể chất của con người Việt Nam được nâng cao nhưng ở độ tuổi đó suy nghĩ rất bồng bột, thiếu chín chắn và phần lớn là sự phản chiếu đối với hành vi, thái độ của người lớn. Bởi vậy việc hạ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự là không cần thiết mà cần phải tăng cường các biện pháp giáo dục quản lý và xem xét trách nhiệm của người đại diện, giám hộ đối với những sự việc này.
Đối với người phạm tội là người dưới 18 tuổi thì cần phải chuyển hóa đầy đủ nội dung của chính sách và pháp luật và tổ chức thực hiện chính sách pháp luật một cách nghiêm túc. Việc tội phạm hình sự có xu hướng trẻ hóa, tỷ lệ người phạm tội dưới 30 tuổi ngày càng nhiều cho thấy tính chất phức tạp của đời sống văn hóa kinh tế xã hội hiện nay. Đó là mặt trái của cơ chế thị trường và sự suy giảm mối liên kết giữa các thành viên trong xã hội, suy giảm đạo đức xã hội. Dù có tăng mức chế tài, xử lý nghiêm minh đối với người phạm tội thì cũng không phải là giải pháp căn bản để đấu tranh với tội phạm. Giải pháp để đấu tranh với tội phạm nói chung, với người dưới 18 tuổi phạm tội nói riêng là phải chỉ ra nguyên nhân điều kiện phạm tội, tăng cường công tác phòng ngừa để loại bỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội. Đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì có chính sách pháp luật riêng, trong đó nhấn mạnh đến yếu tố phòng ngừa, giáo dục. Bởi vậy để đấu tranh với tình hình tội phạm nói chung, tội phạm là người dưới 18 tuổi nói riêng thì các cơ quan chức năng cần phải thực hiện đầy đủ, đồng bộ các giải pháp phòng ngừa, trong đó phát huy giá trị truyền thống đạo đức gia đình, nâng cao trách nhiệm của cha mẹ, người giám hộ, trách nhiệm của giáo viên, nhà trường, trách nhiệm của chính quyền địa phương và các cơ quan đoàn thể... Cần phải có sự phân loại, sàng lọc và có những mức độ giáo dục, can thiệp, hỗ trợ khác nhau đối với mỗi trẻ em, mức độ quan tâm đặc biệt đối với trẻ em là học sinh cá biệt, có hoàn cảnh đặc biệt, tăng cường các hoạt động cứu trợ xã hội... thì sẽ kiểm soát được tình hình tội phạm, đảm bảo hiệu quả trong công tác giáo dục đạo đức, ý thức, trách nhiệm cho giới trẻ. Khi nào chất lượng giáo dục, đặc biệt là giáo dục đạo đức được nâng lên thì vấn đề người dưới 18 tuổi phạm tội không còn là vấn đề đáng lo ngại nữa.
Tài liệu tham khảo:
1. Thành Trung, Nhức nhối thực trạng “trẻ hóa” tội phạm (2019), Báo pháp luật Việt Nam.
2. Phạm Minh Tuyên (Chánh án TAND tỉnh Bắc Ninh), Phòng ngừa người dưới 18 tuổi phạm tội thông qua hoạt động xét xử của Tòa án – Hạn chế và kiến nghị (2019), Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử.
3. Thái An, Từ 2018 đến nay công an TP Hồ Chí Minh ghi nhận 884 nghi phạm hình sự dưới 18 tuổi (2021).
4. Nguyễn Sơn, Vì sao tội phạm hình sự ngày càng trẻ hóa và man rợ? (2015).
5. Báo Bảo vệ Công lý, Tội phạm giết người trẻ hóa: Cần giải pháp căn cơ (2020).
6. Ánh Dung, Vì sao trẻ hóa tội phạm ngày càng gia tăng (2015).
7. Hà Thị Hiên - Viện KSND huyện Lạng Giang, Thực trạng, nguyên nhân và một số giải pháp phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra (2019).
Liên hệ tư vấn và mời Luật sư: 0936683699 - 0983951338