Language:
Hình thức giao dịch dân sự (Điều 119)
22/02/2023
icon-zalo

Luật sư Nguyễn Văn Đồng

Luật sư Hà Thị Khuyên

 

Hình thức thể hiện của giao dịch dân sự rất đa dạng và phong phú, "hình thức giao dịch bằng lời nói hoặc hành vi" cụ thể thường áp dụng cho những giao dịch dân sự được thực hiện hoặc chấm dứt ngay sau khi thực hiện (như mua bán trực tiếp) hoặc áp dụng giữa những chủ thể có sự tin cậy hoặc mối quan hệ thân thiết. Còn "Hình thức giao dịch dân sự thể hiện bằng văn bản" là việc các bên chủ thể xác lập giao dịch dân sự bằng văn bản hoặc thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật để thỏa thuận về các điều khoản của giao dịch và xác nhận ý chí của mình. Đối với những giao dịch dân sự thể hiện bằng văn bản mà pháp luật yêu cầu phải có công chứng, chứng thực, đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó.

 

Phân tích:

 

Theo quy định tại Điều 119 Bộ luật Dân sự năm 2015 về hình thức của giao dịch dân sự, cụ thể như sau:

 

- Hình thức của giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Trong đó hình thức bằng văn bản được cho là hình thức có nhiều những quy định phức tạp liên quan đến hiệu lực của giao dịch dân sự đó trên thực tế.

 

- Giao dịch dân sự thể hiện bằng lời nói là giao dịch được giao kết dưới hình thức ngôn ngữ nói. Các bên giao kết sẽ trao đổi các nội dung thỏa thuận với nhau bằng lời nói trực tiếp hoặc thông qua âm thanh trên điện thoại, điện đàm, thông điệp điện tử…

 

- Giao dịch dân sự thể hiện bằng văn bản là giao dịch dân sự mà hai bên thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của hai bên được thể hiện bằng văn bản và các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương như email, fax,…

 

- Giao dịch dân sự thể hiện bằng hành vi cụ thể là giao dịch dân sự mà hai bên không có thỏa thuận bằng văn bản cũng như thỏa thuận bằng lời nói. Việc giao kết giao dịch dân sự này được minh chứng bằng các hành vi cụ thể như bên bán tiến hành giao hàng hoặc bên mua tiến hành trả tiền.

 

- Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản. Theo quy định tại khoản 12 Điều 4 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì: Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện điện tử. Thông điệp dữ hiệu có thể được thể hiện dưới hình thức trao đổi dữ liệu điện tử, chứng từ điện tử, thư điện tử, điện tín, điện báo, fax và các hình thức tương tự khác. Theo quy định tại Điều 12 Luật Giao dịch điện tử năm 2005 thì: Trường hợp pháp luật yêu cầu thông tin phải được thể hiện bằng văn bản thì thông điệp dữ liệu được xem là đáp ứng yêu cầu này nếu thông tin chứa trong thông điệp dữ liệu đó có thể truy cập và sử dụng được để tham chiếu khi cần thiết.

 

Lưu ý: Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.

 

Giao dịch dân sự vi phạm về hình thức là giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức của giao dịch dân sự. 

 

Theo quy định tại khoản 2 Điều 117 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì: Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự trong trường hợp luật có quy định. Trường hợp pháp luật có quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức mà giao dịch dân sự vẫn vi phạm thì vô hiệu theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015.

 

Hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm hình thức:

 

Điều 131 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu như sau:

 

Thứ nhất, giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Như vậy, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì mọi thỏa thuận coi như không có.

 

Thứ hai, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không thể hoàn trả được bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hoàn trả. Vậy việc trả lại hiện vật là ưu tiên, trường hợp không thể trả bằng hiện vật thì mới trả tiền. Trong thực tế, nhiều khi tài sản không còn nguyên vẹn như khi giao nhưng tài sản chính vẫn còn thì vẫn phải trả, phải nhận, được bổ sung bằng việc thanh toán cho nhau những chi phí hợp lý để khắc phục, bù đắp những tổn thất.

 

Thứ ba, bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức không phải hoàn trả lại hoa lợi, lợi tức đó. Điều này có nghĩa là việc hoàn trả hay không hoàn trả hoa lợi, lợi tức phụ thuộc vào sự ngay tình hay không ngay tình của bên nhận tài sản như các quy định về hoàn trả tài sản do chiếm hữu không có căn cứ pháp luật.

 

Thứ tư, bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường. Khi giao dịch dân sự vô hiệu, nếu các bên có yêu cầu giải quyết bồi thường thì Tòa án có trách nhiệm xác định thiệt hại. Về nguyên tắc, một bên chỉ phải bồi thường cho bên kia khi có thiệt hại xảy ra, không có thiệt hại thì không có trách nhiệm bồi thường. Việc xác định giá của tài sản trong giao dịch cũng là một vấn đề đáng lưu ý để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại, người có lỗi gây ra thiệt hại phải bồi thường.

 

Thứ năm, việc giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền nhân thân do Bộ luật Dân sự, luật khác có liên quan quy định.

 

Một số trường hợp giao dịch dân sự vi phạm về hình thức vẫn có hiệu lực:

 

Hình thức chỉ là yếu tố bắt buộc để giao dịch dân sự có hiệu lực hay không chỉ trong những trường hợp đặc biệt mà pháp luật quy định. Vậy nên, không phải giao dịch vi phạm hình thức nào cũng dẫn đến hậu quả pháp lý bị vô hiệu mà nó vẫn có hiệu lực trong một số trường hợp.

 

Theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2015 giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức nhưng vẫn có hiệu lực nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:

 

- Giao dịch dân sự đã được xác lập theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn bản không đúng quy định của luật mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án sẽ ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó.

 

- Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên Tòa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó và các bên không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực.

 

Như vậy, có thể thấy rằng nếu như một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch và có yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên thì Tòa án sẽ quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó dù giao dịch dân sự vi phạm quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức.

 

Việc xác định một hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch dân sự phải phụ thuộc vào từng loại nghĩa vụ cụ thể. Ví dụ: Nếu là nghĩa vụ hoàn thành công việc thì phải thực hiện được ít nhất 2/3 công việc, nếu là nghĩa vụ trả tiền thì phải trả được ít nhất 2/3 số tiền...

 

Điều 119. Hình thức giao dịch dân sự

1. Giao dịch dân sự được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

Giao dịch dân sự thông qua phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản.

2. Trường hợp luật quy định giao dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tuân theo quy định đó.

 

Liên hệ tư vấn và mời luật sư: 0936683699 - 0983951338